1. Công tác dân vận - một nhiệm vụ thường xuyên, một phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng. Làm tốt công tác dân vận luôn là bài học kinh nghiệm sâu sắc mang lại thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (tháng 2/1930), phương thức dân vận để tập hợp, huy động, phát huy sức mạnh và mang lại lợi ích cho các giai cấp lao động đã được chú trọng chỉ đạo, định hướng cho hoạt động chung. Chương trình tóm tắt của Đảng ghi rõ: “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản... Không bao giờ Đảng hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”
[1].
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập của nhân dân ta đến hồi quyết liệt, với vô vàn khó khăn, để đốc thúc tinh thần, huy động lực lượng toàn quân, toàn dân, bài báo “Dân vận” - tác phầm báo chí chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời (ngày 15/10/1949). Chỉ với 573 từ ngắn gọn, Hồ Chủ tịch đã trả lời 4 vấn đề lớn: Nước ta là nước dân chủ; Dân vận là gì?; Ai phụ trách dân vận?; Dân vận phải thế nào? Người dạy: “Dân vận là
vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”
[2]. Sau tất cả, ý nghĩa quan trọng mà Hồ Chủ tịch chỉ ra là: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Trải qua 92 năm từ khi Đảng ra đời, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là nguyên tắc tổ chức, phương châm hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên.
2. Đối thoại - một hình thức trao đổi trực tiếp giữa các chủ thể tham gia về vấn đề cùng quan tâm. Trong mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, việc cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền tổ chức các cuộc đối thoại với nhân dân, lắng nghe, thấu hiểu nhu cầu, nguyện vọng, và nhất là tiếp nhận các sáng kiến của nhân dân trong giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội luôn là phương thức hữu hiệu để thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Trong chiến tranh, đối thoại với dân chưa được xây dựng thành cơ chế, quy trình, song tính chất, yêu cầu của nó luôn chứa trong mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Khi một chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ra đời, cán bộ, đảng viên phải là người “đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”
[3] như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy.
Không chỉ yêu cầu cán bộ giữ vững nguyên tắc gắn bó mật thiết với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là tấm gương về thực hành nguyên tắc ấy. Người thường xuyên đến với dân, quan sát, lắng nghe, trao đổi để thấu hiểu, đồng cảm, rồi động viên, khích lệ các tầng lớp nhân dân vượt qua khó khăn để tham gia kháng chiến, kiến quốc. Trong tác phẩm “Dân vận”, Người chỉ rõ quy trình tiến hành công tác dân vận, trong đó có những yêu cầu mà hoạt động đối thoại với dân ngày nay cần tuân thủ: cho dân biết, cùng dân bàn và động viên dân làm. Người viết: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”; “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm, gây bức xúc trong nhân dân. Để góp phần giải quyết, ngày 18/02/2019, Bộ Chính trị ban hành
Quy định số 11-QĐi/TW về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân. Theo đó, người đứng đầu cấp ủy các cấp phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân; tôn trọng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân đảm bảo dân chủ, công tâm, khách quan, kịp thời, đúng phạm vi thẩm quyền; sao cho trình tự, thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho người dân; bảo mật thông tin, bảo đảm an toàn cho người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo theo quy định. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, một trong những định hướng chỉ đạo quan trọng là: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”
[4].
Có thể thấy, từ tư tưởng
“dân vận khéo việc gì cũng thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến yêu cầu nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận, trong đó có trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thông qua hình thức tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với dân để nghe, giải đáp, hướng dẫn, khích lệ, tạo lập niềm tin, sự đồng thuận giữa Đảng và nhân dân, là quan điểm chỉ đạo hành động xuyên suốt, giúp cho Đảng giữ được sự trong sạch, vững mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bờ thắng lợi.
3. Nhiều năm gần đây, các tầng lớp nhân dân đã quen với việc hàng tháng, hàng tuần, thường trực cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức các cuộc tiếp dân, đối thoại với dân về các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Đối thoại với dân được thực hiện thông qua nhiều hình thức: hội nghị toàn thể cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình của khu dân cư; hội nghị tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội; hoạt động giám sát của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; giám sát và chất vấn của HĐND các cấp... Đặc biệt, đối thoại là khâu quan trọng trong quy trình tiếp công dân (được quy định tại Luật tiếp công dân 2013) nhằm giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp nhận các ý kiến đóng góp, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc hệ thống chính trị. Với những vụ việc nổi cộm trong đời sống xã hội gây nên những bức xúc, bất bình trong dân, dẫn đến khiếu kiện lâu dài, đông người, vượt cấp, thì việc cán bộ đến với dân, đối thoại để nắm tình hình, hiểu tâm tư nguyện vọng và giải thích cho nhân dân về chủ trương, chính sách, cũng như thu thập thêm thông tin để có cơ sở sửa đổi, bổ sung chính sách, tìm hướng khắc phục... đang là giải pháp hiệu quả ở nhiều địa phương, ngành.
Từ hàng trăm ngàn cuộc đối thọai trực tiếp và đối thoại thông qua Cổng thông tin các địa phương trên cả nước, vai trò, tác dụng của hoạt động đối thoại với dân ngày càng rõ nét. Trên tinh thần Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị, công tác tiếp dân, đối thoại với dân hiện đã không chỉ thực hiện trong phạm vi người đứng đầu cấp ủy mà đã là nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tiếp dân, đối thoại với dân có nơi, có lúc còn những hạn chế.
Tình trạng người đứng đầu ủy quyền cho cấp phó tiếp dân diễn ra còn phổ biến, được xem là biểu hiện của “né”, “trốn” trách nhiệm. Từ đầu năm 2020 đến nay, hoạt động tiếp dân có nơi gần như đình trệ, với lý do “bận chống dịch bệnh”, “bận chuẩn bị Đại hội”, “đang phải làm quen với bình thường mới”... Việc đối thoại để nắm thông tin từ dân và xử lý, giải quyết những phản ánh của dân về những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên chưa được chú trọng; rất ít nơi tổ chức được và hiệu quả cũng không cao. Có những vụ việc nổi cộm, khiếu kiện đông người, lâu ngày, cấp ủy, chính quyền nhiều lần tổ chức đối thoại với dân, song không đi đến được sự đồng thuận, giải pháp xử lý thiếu hợp lý, không kịp thời, tiếp tục gây bất bình trong dân... Tại Đại hội XIII, Đảng ta cũng đã chỉ rõ: “Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”
[5].
Những hạn chế, khuyết điểm nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trước hết là sự hạn chế trong nhận thức một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, những yêu cầu có tính nguyên tắc của hoạt động đối thoại với dân, dẫn đến việc thực hiện quyền và trách nhiệm của cả 2 phía trong quá trình đối thoại chưa đầy đủ, đúng đắn. Việc “chế tài hóa” để kiểm soát trách nhiệm đối thoại với dân của cán bộ chưa được quan tâm, dẫn đến việc thực hiện hay không, như thế nào, xử lý những phản ánh, kiến nghị đến đâu chưa thực sự nghiêm túc. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh của cán bộ còn hạn chế, nên khi đối thoại không biết cách lắng nghe dân, không thấu hiểu vấn đề và không thể giải thích cho dân hiểu đúng và đầy đủ đường lối, chính sách. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất, quan liêu, coi thường dân, khiến cho dân không tin phục, không mở lòng để đối thoại, góp ý, phản ánh, không nhìn về một hướng để cùng giải quyết vấn đề đặt ra. Một bộ phận người dân đặt lợi ích cá nhân, trước mắt, cục bộ lên trên lợi ích chung, nên không thể hiểu và có khi cố tình không chấp nhận những điều cán bộ trao đổi, hướng dẫn, giải thích, dẫn đến đối thoại không tìm được tiếng nói chung, không thống nhất được giải pháp xử lý. Chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, ngành chưa đồng bộ, còn kẽ hở, nên chưa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh tất cả các mối quan hệ của đời sống chính trị - xã hội. Khi đối thoại, việc căn cứ vào cơ sở pháp lý ấy khiến người cán bộ lúng túng, không giải quyết được vướng mắc. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng đối với cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên. Việc tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện đối thoại với dân chưa được quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu thực tiễn để phát triển lý luận về công tác dân vận, về đối thoại với dân chưa được đẩy mạnh, làm sáng rõ. Cơ chế khen thưởng, kỷ luật, phát huy vai trò, kiểm soát chất lượng, đo đếm hiệu quả của công tác đối thoại với dân còn sơ sài.
4. “Thực hiện nghiêm, có hiệu quả các quy định về dân chủ ở cơ sở; công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân, giải quyết những kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân và xử lý kịp thời, dứt điểm các vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống nhân dân”
[6] là định hướng quan trọng trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhằm “
thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”.
Để việc đối thoại với dân trong công tác dân vận thêm hiệu quả, xin đề xuất một số giải pháp cho thời gian tới:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong giữ mối quan hệ với nhân dân. Phải tổ chức học tập để thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân dân – “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”
[7].
Thứ hai, tiếp tục cụ thể hóa quy chế, quy trình, chế độ tiếp dân, đối thoại với dân của cán bộ theo phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm, trên cơ sở các văn bản như Luật Tiếp công dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, Quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân... Tổ chức thực hiện đúng quy định, đảm bảo đích thân cán bộ có trách nhiệm, thẩm quyền thực hiện việc đối thoại để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình đối thoại; không tùy tiện ủy quyền; đảm bảo thực hiện thường xuyên, đúng lịch, không đứt đoạn, tránh né.
Thứ ba, tăng cường bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, đối thoại với dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đảm bảo phải là đội ngũ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”; có kiến thức và kỹ năng tiếp dân, đối thoại với dân, nhất là kỹ năng lắng nghe, thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng thuyết trình, thuyết phục, kỹ năng tiên lượng và xử lý tình huống...
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm kiểm soát hoạt động của cán bộ, đảng viên khi xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch tiếp dân, đối thoại với dân, nhất là khi thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã hứa với dân qua đối thoại. Kiên quyết xử lý đối với cán bộ quan liêu, xa dân, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đàng làm một nẻo gây bức xúc, làm mất niềm tin của nhân dân.
Thứ năm, tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về phương thức tiếp dân, đối thoại với dân trong công tác dân vận. Nghiêm túc cầu thị, lắng nghe, tôn trọng và chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, với tinh thần khoa học, gắn lý luận với thực tiễn để rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm không chỉ từ sự thành công, mà cả sự thất bại trong đối thoại và xử lý bức xúc của dân, sẽ giúp cho công tác đối thoại với dân ngày càng thêm hiệu quả, để công tác dân vận của Đảng, của hệ thống chính trị không chỉ giúp dân biết, cùng dân bàn, khuyến khích dân làm, dân kiểm tra, giám sát, mà sau tất là dân được thụ hưởng, như Hồ Chủ tịch từng mong muốn: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.