Làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình": Đại thắng mùa xuân năm 1975 - Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn 

Làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình": Đại thắng mùa xuân năm 1975 - Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn

Thứ ba - 01/05/2018 15:19
Đại thắng mùa xuân năm 1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, có ý nghĩa và giá trị to lớn cả về chính trị, quân sự, ngoại giao. Sự thật lịch sử rất rõ ràng, vậy mà cứ vào dịp chúng ta tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày chiến thắng là trên một vài trang mạng lại xuất hiện những giọng điệu mang tư tưởng thù địch xuyên tạc sự thật, phủ nhận ý nghĩa, giá trị lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Nhằm đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái ấy, khẳng định giá trị của Chiến thắng 30-4 trong thời kỳ mới, Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài: "Đại thắng mùa xuân năm 1975-Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn".
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng (ngày 15-5-1975.)(Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng (ngày 15-5-1975.)(Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bài 1: Giá trị lịch sử của chiến thắng là không thể xuyên tạc
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh dấu sự kết thúc một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Song từ đó đến nay, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ chiến thắng vĩ đại này của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đấu tranh bóc trần những luận điệu dối trá, xuyên tạc lịch sử bằng các chứng cứ lịch sử, trong đó có những lời thú nhận của chính phía đối phương tham chiến và đánh giá của các nhà nghiên cứu phương Tây, để qua đó khẳng định giá trị và ý nghĩa thời đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975.
Sự thật về một cuộc chiến tranh
Thực tế từ sau năm 1975 đến nay, câu hỏi “Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?” vẫn làm đau đầu các nhà chiến lược chính trị, quân sự của Mỹ và các nước phương Tây. Nhiều nhà lãnh đạo, chính khách ở Mỹ đã cố tình che giấu sự thật, tìm cách lý giải, biện minh cho âm mưu, thủ đoạn đen tối của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và buộc tội cho chính “cộng sản Việt Nam” gây ra. Có những kẻ hiếu chiến cho rằng: “Hoa Kỳ thất bại trong chiến tranh vì đã không thực sự cố gắng, không giữ được cho mình uy quyền và sức mạnh”; “không biết đẩy mạnh leo thang chiến tranh” để “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá!”. Không ít học giả Mỹ và phương Tây lại đưa ra lý lẽ để biện minh cho nguyên nhân thất bại cay đắng này của Mỹ ở Việt Nam là “do quân đội Mỹ bị đưa đến chiến trường châu Á xa xôi, đầy cạm bẫy, gian nan”. Song, cũng có rất nhiều chính khách, nhà quân sự, nhà nghiên cứu đã quyết lần tìm và bóc trần sự thật này.
Khi nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam, nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko viết trong tác phẩm "Giải phẫu một cuộc chiến tranh", xuất bản tại New York (Mỹ) năm 1985, đưa ra đánh giá thật chua chát: “Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh nước ngoài đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1882 đã gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về chính trị”. Nhà báo Ezwin Knoll dày công sưu tập hơn 7.000 tài liệu của Lầu Năm Góc, trong đó phần lớn là tài liệu tuyệt mật liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Tháng 9-1991, ông xuất bản cuốn sách "Cuộc chiến bịp bợm của Mỹ" do Nhà xuất bản Washington (Mỹ) phát hành, gây tiếng vang lớn trong xã hội Mỹ. Cuốn sách dẫn ra những tư liệu chân thực, nêu rõ âm mưu xâm lược Việt Nam được thực hiện bằng các thủ đoạn chiến tranh tàn bạo, phi nghĩa, vô nhân đạo của Mỹ; đồng thời chỉ ra dã tâm xâm lược Việt Nam mà Nhà Trắng tiến hành với những luận điệu xuyên tạc, hù dọa nhân dân Mỹ về cái gọi là “sự bành trướng của cộng sản Bắc Việt là mối đe dọa đối với lợi ích quốc gia Mỹ, đe dọa an ninh nước Mỹ”. Góp tiếng nói vào trả lời cho câu hỏi “Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?”, một phóng viên của hãng tin UPI thời kỳ chiến tranh Việt Nam là David Lamb đã lột tả sự thật trong cuốn "Vietnam, ngày nay" (Vietnam, Now), trong đó nêu rõ: “Sai lầm lớn của người Mỹ là không hiểu lịch sử, văn hóa và trạng thái tâm lý đặc trưng của Việt Nam. Họ quá tin chắc vào sức mạnh quân sự sẽ thắng cuộc chiến, không bao giờ buồn để ý đến chuyện tìm hiểu là họ chiến đấu với ai... Mỹ đã tới Việt Nam để xây dựng nhưng rút cuộc là phá hủy. Mỹ tới rừng rú Việt Nam để chiếm lòng dân, nhưng trong cuộc chiến lâu dài nhất-cuộc chiến đầu tiên mà Mỹ thất trận-đã khám phá ra rằng những dụng cụ chiến tranh không thể thay thế cho sinh khí của tinh thần quốc gia”.
Chiến thắng của chính nghĩa
Lời tự thú thất bại cay đắng của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với chứng cứ không thể rõ ràng, thuyết phục hơn từ chính những nhà chiến lược quân sự và nhiều tướng lĩnh lừng danh của nước Mỹ từng can dự vào cuộc chiến vô cùng tàn khốc này. Chúng ta hãy đọc một cuốn hồi ký viết về chiến tranh có tựa đề “Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” của Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Tổng thống Johnson và Nixon, do Nhà xuất bản Random House phát hành tháng 4-1975, đúng vào dịp quân và dân ta đang tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuốn hồi ký chỉ ra 11 nguyên nhân gây nên thảm họa cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến ở Việt Nam, trong đó có các nguyên nhân: Mỹ đã đánh giá thấp sức mạnh của cuộc đấu tranh hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của CNXH; sự thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam; sự nhìn nhận, đánh giá sai về sức mạnh sâu thẳm nhất của một dân tộc không nằm ở mũi nhọn quân sự mà ở sự đoàn kết của dân tộc đó... Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phải công khai thừa nhận: “... Chúng tôi (tức Chính phủ Mỹ) đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Đây chính là một trong những lời thú nhận thất bại cay đắng chưa từng có trong lịch sử đưa quân đội tham chiến ở ngoài nước Mỹ.
Lời thú nhận về nguyên nhân thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam còn được dẫn liệu trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của Đại tướng, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Mỹ giai đoạn 1964-1968 (nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, phát hành năm 1988), trong đó có đoạn viết: “Lịch sử rất có thể đánh giá rằng nhảy vào Việt Nam là một trong những sai lầm lớn nhất của đất nước Mỹ”. Nhà sử học Stanley Karnow là một trong số ít các phóng viên nước ngoài có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh đã viết cuốn sách “Vietnam A History”, được coi như một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại. Ông khái quát rất cô đọng và thấm thía về sự sai lầm của các Chính phủ Mỹ đương thời là “xuất phát từ sự không hiểu biết gì về lịch sử Việt Nam, một lịch sử dài và đau đớn những cuộc chiến, những xung đột và điều chỉnh đã tạo cho người Việt Nam một ý thức sâu sắc về dân tộc họ. Cũng những xung đột và điều chỉnh ấy đã làm nên một đảng tiên phong bản lĩnh và trí tuệ, luôn biết đổi mới kịp thời vào những thời điểm quyết định với nỗ lực và kỳ vọng được đồng hành cùng đất nước”. Chính vì những sai lầm và thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa, chính trị ở nước Việt Nam mà các đời Tổng thống Mỹ khi đó đã đẩy nước Mỹ sa lầy trầm trọng vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa khi tiến hành chiến tranh xâm lược một đất nước với tiềm lực kinh tế, quân sự thua kém rất nhiều lần so với cường quốc Hoa Kỳ. Vậy xin viện dẫn lời của tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và cũng từng là cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson, đã phải thốt lên rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này, mà chỉ toàn là một lũ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó” (Báo Mỹ “Sao và vạch”, ngày 14-5-1975). Đúng vậy, một đất nước được thế giới coi là rất hùng mạnh, lại đem quân đi xâm lược một quốc gia có độc lập, chủ quyền, lại kém mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự, thì làm gì có anh hùng, như lời tự vấn của tướng Maxwell Taylor.
Những lời thú nhận của các chính khách, các nhà lãnh đạo, cùng nhiều tướng lĩnh Mỹ và phản ánh của các phóng viên chiến trường ở một số hãng thông tấn nổi tiếng các nước phương Tây đã góp phần bóc trần sự thật về một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” mà chính phủ Mỹ đương thời đã dã tâm tiến hành trong hàng chục năm chống nhân dân Việt Nam. Lịch sử chiến tranh thế giới đương đại vẫn hiển hiện và lưu truyền mãi một bức tranh ảm đạm đối với nước Mỹ trong những ngày tháng 4-1975. Có thể khẳng định, sai lầm lớn nhất của Mỹ khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam là không thấy được một dân tộc Việt Nam luôn luôn có khát vọng hòa bình, tự do và hạnh phúc, nên sẵn sàng “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để đạt tới khát vọng hòa bình cao cả đó. Bởi thế, những dân tộc đang đấu tranh để giành độc lập, những người có lương tri trên toàn thế giới, trong đó có đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý ở nước Mỹ, khi nghe tin Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 và giành toàn thắng, họ đã coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam như thắng lợi của chính mình. Đó là niềm tự hào kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm, không một thế lực nào có thể phủ nhận được.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã khép lại cánh cửa chủ nghĩa thực dân mới, làm tiêu tan mọi mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch hòng thôn tính, đô hộ, nô dịch, ngăn cản sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của biết bao sự tích lũy, trải nghiệm của cách mạng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự hy sinh to lớn của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực của toàn dân, toàn quân ta. Khẳng định chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân năm 1975, để nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc chân chính, tạo nguồn động lực cho sự phát triển mới của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chứ không nhằm khoét sâu, làm đau đớn thêm vết thương chiến tranh do cuộc chiến phi nghĩa, tàn bạo mà đế quốc Mỹ gây ra.
Khẳng định giá trị, ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta cũng đồng thời đấu tranh phê phán, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc sự thật lịch sử với những thiên kiến lệch lạc, những ác ý thâm độc của các thế lực thù địch và cả những ngộ nhận, mơ hồ trong sự nhìn nhận, đánh giá lịch sử chiến tranh cách mạng thiếu khách quan, cụ thể, đi ngược lại tinh thần khoan dung, đồng thuận, đại đoàn kết dân tộc của toàn dân ta. Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối.
Bài 2: Phủ nhận những thành quả mở ra từ Đại thắng mùa xuân năm 1975 là có tội với lịch sử
Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.
Nền kinh tế yếu kém, tham nhũng của chính quyền Sài Gòn
Sự thật tiềm lực kinh tế miền Nam trước giải phóng ra sao? Trong cuốn "Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005), giáo sư Trần Văn Thọ cho biết, tính chung giai đoạn 1955-1975, kinh tế tại miền Nam chỉ phát triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%/năm). Trong khi cũng giai đoạn ấy, kinh tế tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa phát triển bình quân 6%/năm (GDP đầu người tăng khoảng 3%/năm).
Trước giải phóng, các ngành sản xuất của miền Nam rất yếu kém. Công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng từ 8% đến 10% GDP, thậm chí có những năm chỉ còn 6%. Nông-lâm-ngư nghiệp luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP. Còn tỷ trọng của khu vực dịch vụ là khoảng 45%-60%. Công nghiệp miền Nam đến hơn 90% là công nghiệp nhẹ được hình thành và phát triển gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, chỉ khoảng 1% cơ sở có quy mô từ 10 công nhân trở lên, 99% là dưới 10 công nhân. Sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị và nguyên liệu, có giai đoạn 100% nguyên liệu phải nhập khẩu (Theo Lịch sử phát triển Công nghiệp-Thương mại-Giai đoạn 1975-1985, Bộ Công Thương). Vì thế, có giai đoạn, chính quyền đã bỏ chính sách nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất mà hướng thẳng tới việc nhập hàng tiêu dùng.
Ngân sách của chính quyền Sài Gòn luôn trong tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chính là các khoản chi cho quân sự luôn lớn hơn chi cho dân sự. Thâm hụt ngân sách thường ở mức 30%-40%, trong đó cao nhất là năm 1965 với 41%. Lạm phát giai đoạn 1965-1970 thường hơn 30%, cao nhất là năm 1966 lên tới 61%. Trong cơ cấu chi ngân sách, chi tiêu quân sự luôn chiếm tỷ trọng lớn, cao nhất là 66% (vào năm 1968 và năm 1969). Chi tiêu dân sự có tới 80% là chi trả lương cho đội ngũ công chức trong chính phủ. Vì thế, phần đầu tư cho phát triển ở mức rất thấp. (Theo GS Đặng Phong, Kinh tế miền Nam thời kỳ 1955-1975, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004).
Trả lời phỏng vấn BBC, chuyên gia kinh tế là Việt kiều Mỹ, ông Bùi Kiến Thành từng đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là "nền kinh tế phát triển ảo", "không vững chắc", "không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính". Ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế "chưa trong sáng", cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn.
Như thế có thể thấy, kinh tế của chính quyền Sài Gòn mà một số kẻ cố tình ngợi ca, thổi phồng chỉ là một nền kinh tế yếu kém, lệ thuộc hoàn toàn vào hàng trợ cấp của Mỹ, thứ kinh tế phục vụ chiến tranh. Nó chỉ tạo ra sự phồn hoa giả tạo ở Sài Gòn, một lối sống tiêu dùng nhờ hàng nhập khẩu từ Mỹ. Sài Gòn được coi là “Hòn ngọc Viễn Đông” bởi thời bấy giờ các nước trong khu vực đều còn nghèo. Chỉ cần ra khỏi Sài Gòn vài chục cây số, đến những vùng nông thôn rộng lớn của miền Nam, người dân sống chìm trong nghèo đói, tăm tối. 
Điều quan trọng nhất là chế độ ngụy quyền Sài Gòn là một chế độ tay sai, do đế quốc Mỹ dựng lên, điều khiển, là công cụ để cai trị dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam như một thuộc địa kiểu mới, để thực hiện mưu đồ và vì lợi ích của đế quốc Mỹ. Những ai trong chính quyền Sài Gòn không tuân theo chỉ đạo, không vì lợi ích của Mỹ sẽ bị gạt ra, thậm chí bị mất mạng. Điển hình nhất là ông Ngô Đình Diệm, khi đang là tổng thống của chính quyền Sài Gòn, nhưng chỉ cần biểu lộ những mưu đồ riêng, bất tuân theo sự chỉ đạo, sắp đặt của đế quốc Mỹ, lập tức bị Mỹ giật dây, thúc đẩy một số tướng lĩnh Sài Gòn đảo chính, bắn chết cả hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.
Chính quyền Sài Gòn là kẻ thù của nhân dân
Những kẻ nói dối còn cho rằng, chính quyền Sài Gòn là chính quyền được lòng dân. Sự thật, đây là một chính quyền tàn ác với nhân dân và bị nhân dân coi là kẻ thù, nổi dậy chống lại. Tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở của chế độ Sài Gòn ở nông thôn. Trong 2.627 xã toàn miền Nam, nhân dân đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã, đồng thời làm tê liệt chính quyền Mỹ-Diệm ở hầu hết các xã khác... Năm 1963, toàn miền Nam có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Nhân dân đã phá hoàn toàn 2.895 ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, giải phóng hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Do bị đàn áp tôn giáo, các tăng ni, phật tử đã đấu tranh ở Huế ngày 22-5-1963 đòi được treo cờ Phật trong lễ Phật đản. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu ở Sài Gòn; Đại đức Thích Thanh Tuệ và hòa thượng Thích Tiêu Diêu đã tự thiêu ở Huế để phản đối chính sách khủng bố, đàn áp tôn giáo của chính quyền Sài Gòn. Ngày 20-8-1964, 20 vạn đồng bào bao vây Dinh Độc Lập phản đối chính quyền Sài Gòn. Ngày 24-9-1964, hơn 100.000 công nhân Sài Gòn-Gia Định bãi công và tuần hành để phản đối chế độ độc tài quân sự Sài Gòn (theo “Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước).
Sự tàn ác của chế độ ngụy quyền Sài Gòn thể hiện rõ qua cách ứng xử của quân đội Sài Gòn với người dân. Nhà sử học Gregory Daddis nhận xét: “Những hành vi tội ác của quân đội Sài Gòn khiến người dân xem họ như kẻ thù. Khi được hỏi tại sao người dân không ủng hộ chính quyền Sài Gòn, người dân đã trả lời: Vì quân đội Sài Gòn thường xuyên đốt nhà của dân làng, thoải mái đánh đập, giết bất cứ ai và hiếp dâm phụ nữ. Cứ mỗi lần quân đội Sài Gòn tới thì lại càng có nhiều người kết thân với Việt cộng” (Theo cuốn “Chiến tranh của Westmoreland: Đánh giá lại chiến lược của Mỹ tại Việt Nam”).
Những kẻ vô lương tâm ca ngợi chính quyền Sài Gòn làm sao có thể che giấu được sự thật về cuộc sống bị kìm kẹp, tù túng, đau khổ của người dân miền Nam trong những “khu trù mật”, “ấp chiến lược” do Mỹ và chính quyền Sài Gòn tạo ra; rồi những hình phạt tàn ác như thời trung cổ là chặt đầu bằng máy chém, những sự đàn áp dã man Phật giáo mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành trên khắp miền Nam. Chẳng lẽ họ nghĩ người dân đã quên tiếng kêu khóc của những phụ nữ hiền lành, trẻ em vô tội bị lính Mỹ thảm sát ở miền Nam, trong đó điển hình là vụ thảm sát tại thôn Mỹ Lai (thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi)?... Nói xã hội miền Nam Việt Nam trước giải phóng là một xã hội dân chủ, hạnh phúc là một sự lừa đảo trắng trợn trên xương máu, trên nỗi đau của nhân dân miền Nam trước giải phóng. 
Vì bị người dân coi như kẻ thù nên quân đội Sài Gòn rất chật vật trong việc kiểm soát tình hình. Năm 1975, toàn bộ 13 sư đoàn và 17 liên đoàn biệt động quân (tương đương hơn 5 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh; tính trung bình một tỉnh chỉ có 1 đến 2 trung đoàn chính quy đóng giữ. Do phải trải quân giữ đất, lo đối phó với người dân, đàn áp người dân nên quân đội Sài Gòn luôn thất thế khi phải đối mặt với Quân Giải phóng. Ngược lại, chính vì được nhân dân ủng hộ nên lực lượng giải phóng với ba thứ quân lớn mạnh vượt bậc. Vùng giải phóng mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc của cách mạng miền Nam.
Như vậy, một chế độ tay sai của đế quốc, đàn áp tôn giáo, giết hại man rợ chính đồng bào mình, chia rẽ dân tộc mình, để cho đế quốc tàn phá đất nước mình bằng bom đạn, bằng chất độc da cam, bị nhân dân nổi dậy chống lại, thì chỉ có kẻ bất lương mới coi chế độ ấy là tốt đẹp. Một nền kinh tế yếu kém, lệ thuộc vào hàng viện trợ, tham nhũng tràn lan thì chỉ có kẻ không biết gì, hoặc nhắm mắt nói liều mới cho rằng đó là một nền kinh tế mạnh. Một xã hội toàn máy chém giết người, phụ nữ bị binh lính cưỡng bức, người dân bị dồn vào ấp chiến lược để giam hãm, chắc chắn là một xã hội không có tự do, một xã hội man rợ.  
Hòa bình, thống nhất là nền tảng phát triển cho Việt Nam
Sau giải phóng, vẫn có những giọng điệu cho rằng Chiến thắng 30-4 chẳng có giá trị, ý nghĩa gì trong thời kỳ mới. Nhưng họ đã lầm, tinh thần Đại thắng mùa xuân năm 1975 là ý chí, niềm tin cháy bỏng và khát vọng thiêng liêng vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do và thống nhất đất nước mà không tiếc máu xương, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường quyết giành thắng lợi. Đó là tinh thần vượt qua mọi gian nan, thử thách để vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn mang theo ý chí ấy, tinh thần ấy, quyết tâm ấy vào công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Chính tinh thần Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã hun đúc, tiếp lửa để ý Đảng, lòng dân hội tụ kết thành sức mạnh đưa công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN lên tầm cao mới.
Với môi trường chính trị ổn định, Việt Nam luôn được đánh giá là một trong những điểm đến an toàn, một điểm đầu tư hấp dẫn và hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài. Trang Business Insider của Mỹ xếp Việt Nam trong tốp 6 điểm du lịch an toàn nhất thế giới... Hòa bình, ổn định chính trị, an ninh an toàn là lợi thế của Việt Nam so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù suốt một thời gian dài bị ảnh hưởng không nhỏ bởi chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1986-2013 là 6,25%/năm, trong đó thời kỳ 1991-2005 lên tới 7,17%/năm. Đến nay, kinh tế Việt Nam đang nổi lên tại châu Á như một điểm đầu tư lý tưởng với lợi thế về nguồn nhân lực trẻ và tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đang được các tập đoàn lớn hàng đầu thế giới, như: Samsung, Intel, LG… rót nguồn vốn khổng lồ để xây chuỗi các nhà máy... Bloomberg tin rằng Việt Nam sẽ vươn lên trở thành “con hổ” về kinh tế tiếp theo tại châu Á.
Cùng với những bước tiến về kinh tế, đời sống của người dân Việt Nam ngày một khấm khá. Tạp chí The Economistđánh giá, Việt Nam sẽ là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba khu vực châu Á-Thái Bình Dương về số người giàu mới nổi trong giai đoạn 2014-2020. Theo tạp chí này, vào năm 2020, số lượng người giàu mới nổi của Việt Nam sẽ tăng gần 35% so với hiện nay. Và rằng trong vòng hai thập kỷ tới, Việt Nam luôn là mảnh đất thuận lợi cho nhóm người giàu mới nổi tăng trưởng, trên nền tảng thu nhập và chi tiêu của người dân gia tăng ổn định, chính sách ổn định giá của Chính phủ…
Từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm quốc gia đứng đầu thế giới về chỉ số hạnh phúc của người dân. New Economics Foundation-một tổ chức nghiên cứu kinh tế-xã hội có trụ sở chính tại Vương quốc Anh, công bố hồi tháng 1-2018 rằng Việt Nam đang là nước xếp thứ 5 trên thế giới về chỉ số hạnh phúc (HPI). Chỉ số này nhằm đánh giá những quốc gia mà ở đó niềm vui sống của người dân là cao nhất, người dân cảm thấy sống có ích, hài lòng về tuổi thọ, sự thịnh vượng và các vấn đề về môi trường. Đáng lưu ý, Mỹ mặc dù là cường quốc có nền kinh tế đứng đầu thế giới, nhưng lại chỉ đứng thứ 108/140 quốc gia trong bảng xếp hạng này. Công ty nghiên cứu thị trường hàng đầu thế giới Nielsen cũng vừa công bố hồi tháng 1-2018 rằng, Việt Nam lọt vào tốp 5 nước đứng đầu thế giới về mức độ lạc quan của người tiêu dùng.
Sự thật hiển nhiên trong quá khứ và hiện tại đã phủ định sự lừa phỉnh trong tuyệt vọng của những kẻ thiếu nhân tính, cố tô vẽ cho một bức tranh của chính quyền Sài Gòn trong quá khứ, hòng phủ nhận những thành quả của Việt Nam sau giải phóng. Có thể khẳng định, mặc dù còn không ít khó khăn, thách thức nhưng Việt Nam đang dần trở thành một nước thịnh vượng và hạnh phúc. Chính tinh thần, hào khí Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã cổ vũ, khích lệ, tiếp thêm nguồn động lực để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phấn khởi, hăng hái bước vào cuộc chiến đấu mới-cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước phát triển, sánh ngang các nước tiên tiến khắp năm châu. Với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, có quyết tâm và nghị lực, với ý chí độc lập tự chủ và tinh thần năng động sáng tạo, Việt Nam đã chiến thắng trong chiến tranh và nhất định giành thắng lợi trong xây dựng hòa bình.
ĐỨC THẮNG - QUANG PHƯƠNG - KIM NGỌC
 
 

Nguồn tin: Qdnd.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KON TUM
Giấy phép số: Giấy phép số 01/GP-TTĐT, ngày 28 tháng 8 năm 2020
Chịu trách nhiệm: Ông Huỳnh Quốc Huy, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Địa chỉ: 67 Bà Triệu, P. Thắng Lợi, Tp. Kon Tum
Điện thoại: 0260.3862301
Fax: 0260. 3865464
Email: bantuyengiaotinhuykt@gmail.com
Website: http://https://tuyengiaokontum.org.vn/
Văn bản mới

TÀI LIỆU

phổ biến, quán triệt Kết luận 72.TW và Chương trình 77.TU (gửi kèm CV 2303-CV/BTGTU)

Lượt xem:101 | lượt tải:96

TÀI LIỆU

Hướng dẫn và Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Trần Phú

Lượt xem:129 | lượt tải:86

HD.50.BTGTU

Hướng dẫn sinh hoạt chính trị, tư tưởng về nội dung Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Lượt xem:174 | lượt tải:120

TÀI LIỆU

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 78 năm Ngày hy sinh của Đồng chí Phan Văn Khoẻ, nguyên Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ

Lượt xem:821 | lượt tải:103

TÀI LIỆU

Hướng dẫn và Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Lương Bằng

Lượt xem:1560 | lượt tải:233

KH.130.TU

về tổ chức Giải báo chí về xây dựng Đảng (Búa liềm vàng) của Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ IV-năm 2024

Lượt xem:61 | lượt tải:19

QĐ.1084.TU

thành lập Ban Tổ chức Giải báo chí về xây dựng Đảng (Búa liềm vàng) của Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ IV – năm 2024.

Lượt xem:59 | lượt tải:15


bao chi
bacho 2
truongsa

sls
Đăng nhập
Hãy đăng nhập tài khoản để sử dụng tài liệu Báo cáo viên
Thống kê
  • Đang truy cập76
  • Hôm nay8,534
  • Tháng hiện tại506,914
  • Tổng lượt truy cập30,041,091
Thăm dò ý kiến

Bạn có thường xuyên truy cập trang web này không?

Thăm dò ý kiến

Theo bạn trang web có cần bổ sung, điều chỉnh nội dung gì không?

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây