Tháng 10/1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở một cuộc tiến công lớn trên toàn chiến trường trong mùa Xuân 1968. Mục tiêu chiến lược của tổng công kích và tổng khởi nghĩa được Bộ Chính trị đề ra là: "Nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam"; "Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, đấu tranh, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà".
Quán triệt phương châm và mục tiêu chiến lược của Bộ Chính trị, Khu ủy V quyết định khẩn trương tăng cường về mọi mặt, chuẩn bị phương án tiến công và nổi dậy giành chính quyền, đặc biệt là phương thức giành chính quyền ở các thành phố và thị xã. Đối với các tỉnh Tây Nguyên, Khu ủy V chủ trương chủ yếu dùng đòn tiến công quân sự để giải phóng. Tháng 10/1967, Hội nghị liên tịch giữa các Tỉnh ủy Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk với Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) được khai mạc để thống nhất kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa toàn bộ khu vực Tây Nguyên và thống nhất các giải pháp phối hợp hành động đồng bộ.
Lúc này trên địa bàn tỉnh lực lượng của địch gồm có: Quân Mỹ có 4 tiểu đoàn (thuộc sư đoàn 4) đóng quân ở hướng Plei Kần; 5 đại đội bảo vệ hậu phương, khoảng 250 cố vấn và nhân viên kỹ thuật cùng với một bộ phận của lữ dù 173 ở thị xã Kon Tum. Quân ngụy có Sở chỉ huy Biệt khu 24, trung đoàn bộ binh 42, một trung đoàn cơ giới và thiết xa vận, 1 tiểu đoàn biệt kích “Lôi Hổ”, 2 tiểu đoàn pháp 105mm và 155mm, 1 chi đội máy bay hỗ hợp các loại, 18 đại đội bảo an, 8 đại đội biệt kích, 3 đại đội thám kích, 2 đại đội và 6 trung đội thám báo, 1 đại đội cảnh sát, 1 đại đội tâm lý chiến, 1 đại đội truyền tin, 1 đại đội trinh sát, 5 đại đội và 7 trung đội cảnh vệ, khoảng 80 trung đội dân vệ và 4 đoàn bình định nông thôn.
Thực hiện chỉ đạo của trên, những tháng cuối năm 1967, Tỉnh ủy tập trung chuẩn bị các điều kiện cho chiến dịch Xuân 1968. Trước hết, Tỉnh ủy tổ chức chỉnh huấn chính trị trong toàn Đảng, toàn quân tổng kết thắng lợi, xác định những tồn tại, sai sót, khuyết điểm cần khắc phục. Đó là vùng phía trước mở ra còn yếu, cơ sở và bàn đạp tuy có phát triển song vẫn còn ít so với lợi thế mở ra; công tác binh vận tiến bộ chậm; công tác xây dựng phía sau chưa ngang tầm, nhất là phong trào đoàn kết, hợp tác tương trợ sản xuất phát triển chậm, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn (có nơi như H67, số dân bị đói lên đến 570 người); xây dựng lực lượng du kích còn chưa đạt yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới; các đoàn thể còn chưa mạnh; công tác phát triển Đảng vẫn còn yếu... Từ đó, Tỉnh chỉ đạo tập trung khắc phục những tồn tại thiếu sót từ cơ sở, từng chi bộ, từng đơn vị, trên cơ sở phát huy mạnh mẽ đều khắp những thành tích đạt được vừa qua, mà động viên phong trào, tăng thêm ý chí chiến đấu, nhất quán đường lối, phương châm; phương pháp cách mạng, đoàn kết nhất trí, thực hiện "bốn bám": Đảng bám dân, dân bám đất, du kích, bộ đội bám địch, cấp trên bám cấp dưới. Phát động phong trào thi đua động viên mọi nỗ lực quyết tâm giành thắng lợi to lớn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Ngày 03/11/1967, Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị số 30/VP huy động cán bộ, nhân viên tập trung phục vụ tiền tuyến. Theo đó, Tỉnh ủy huy động tất cả cán bộ đảng viên, đoàn viên, công nhân viên các cơ quan chung quanh tỉnh, huyện đi phục vụ tiền tuyến một thời gian. Ngoài thời gian và địa điểm tập trung, cũng như chỉ tiêu quân số, cách thức tiến hành để đạt kết quả cao nhất, Chỉ thị nêu rõ: Trước khi đi các đơn vị cần họp động viên tinh thần hăng hái đóng góp công sức cho cách mạng, làm việc với tinh thần quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quần chúng noi theo; có tinh thần đoàn kết tương trợ cao, giữ vững phẩm chất của người cán bộ cách mạng: "Lúc này hơn lúc nào hết, tiếng còi xung kích đã thúc giục chúng ta sẵn sàng xả thân cứu nước, quyết tâm đánh bại kẻ thù, quyết giành cho được độc lập, tự do cho dân tộc...".
Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là nhanh chóng củng cố, phát triển sâu rộng, đều khắp mạng lưới cơ sở bên trong vùng địch kiểm soát và đẩy mạnh hoạt động của các đội công tác vũ trang, thọc sâu vào hậu cứ địch tại các trung tâm thị xã, thị trấn, quận lỵ và các khu căn cứ để xây dựng thực lực cách mạng vững chắc sâu trong lòng địch. H5 là địa bàn quan trọng nhất thực thi nhiệm vụ này, cùng với Ban cán sự các huyện trong tỉnh và ban an ninh đảm trách.
Cuối năm 1967 trở đi, các cơ sở mật hoạt động sôi nổi đều khắp và phát triển nhanh, với nhiều nhóm hoạt động riêng lẻ, nhỏ như: nội tuyến, tự vệ mật, binh vận, đấu tranh chính trị, cán bộ hợp pháp... Riêng địa bàn thị xã đã xây dựng 56 cơ sở nòng cốt (chưa kể quần chúng cảm tình cách mạng), trong đó có nhiều cơ sở mới được xây dựng và đi vào hoạt động mạnh mẽ, liên tục, có hiệu quả.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở, Ban cán sự H5 bố trí đồng chí Nguyễn Thế Vũ (lúc này là Phó Bí thư Ban cán sự H5) đi lại ăn ở nửa hợp pháp trong nội thị, trực tiếp kiểm tra tình hình hoạt động và gặp gỡ các cơ sở bàn bạc kế hoạch hành động, ứng phó trực diện với địch. Đội công tác và lực lượng an ninh đã phối hợp chặt chẽ với mạng lưới cơ sở nội thị, hoạt động mạnh trong lòng địch như một tổ chức chặt chẽ theo yêu cầu của Đảng, nhờ đó Ban cán sự nhân dân đầu tiên được cấp trên cho phép thành lập tại thị xã Kon Tum vào ngày 12/10/1967 để đấu tranh trực diện có tổ chức hợp pháp với địch. Các cơ sở an ninh ở Phường Quý, ở chợ Kon Tum đã giúp an ninh thị xã làm tốt việc tán phát truyền đơn sâu vào nội thị.
Tại các huyện Đăk Tô, Đăk Glei, Kon Plông, v.v, thời gian này, lực lượng vũ trang phối hợp chặt chẽ với các đội công tác làm tốt việc tuyên truyền, vận động quần chúng, gặp gỡ, thuyết phục nhân sĩ trí thức, từng bước giác ngộ họ hưởng ứng và đi theo cách mạng, đánh Mỹ diệt ngụy đều khắp.
Các lực lượng vũ trang vừa tiếp tục chiến đấu giữ thế chủ động tấn công địch, giữ và mở rộng cơ sở bàn đạp, vừa huấn luyện cách đánh mới thích hợp ở đường phố, thị xã. Bộ đội tỉnh và huyện cùng du kích liên tục đánh tiêu hao sinh lực địch xung quanh căn cứ Đăk Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum, tạo thế áp sát, vây áp đồn địch, giữ thế chiến trường, giữ hành lang, bàn đạp tấn công.
Lực lượng của ta nhanh chóng chuyển mạnh hoạt động về phía trước, tập trung ở địa bàn thị xã, thị trấn và vùng ven đô thị, chuẩn bị cho cuộc tổng công kích và nổi dậy ở trung tâm thị xã. Tất cả các cơ sở bí mật hoạt động tích cực. Lực lượng an ninh, được giao nhiệm vụ đi trước một bước, trinh sát tình hình, chuẩn bị cơ sở, lập hồ sơ nắm đối tượng, phân loại xúc tiến kế hoạch làm trong sạch địa bàn, dồn sức chuẩn bị cho tổng tấn công và nổi dậy.
Vùng căn cứ hậu phương kháng chiến cũng chuyển mạnh trọng tâm hoạt động phục vụ phía trước, hướng về các trung tâm thị xã, thị trấn. Đồng bào các dân tộc tuy đời sống còn khó khăn, thiếu thốn vẫn thực hành tiết kiệm, đóng góp sức người, sức của nhất là đóng góp lương thực, thực phẩm để nuôi quân, chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch. Với khẩu hiệu: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", quân và dân tỉnh Kon Tum ngày đêm bí mật khẩn trương đắp đường, làm cầu cống, thồ gùi vận chuyển hàng nghìn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm trong vùng giải phóng ra phía trước, với khí thế hào hùng sôi nổi, phấn khởi tin tưởng hơn bao giờ hết. Lúc này tại vùng hậu cứ có 330 thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội, 250 thanh niên vào thanh niên xung phong, hàng nghìn dân công lên đường tự nguyện phục vụ tiền tuyến. Đồng bào vùng căn cứ kháng chiến còn đóng góp trên 10 vạn ngày công cho chiến dịch, tích cực nhất là các huyện Kon Plông, Đăk Tô.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương và cấp trên, Bộ chỉ huy chung trên địa bàn tỉnh chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã được lập ra từ cuối năm 1967, do đồng chí Vương Tuấn Kiệt (Phú), Phó Tham mưu trưởng B3 làm Tư lệnh; đồng chí Phùng Bá Thường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 bộ đội chủ lực làm Phó Tư lệnh; đồng chí Bùi Anh (Nguyễn Văn Tiềm), Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum làm Chính uỷ; đồng chí Nguyễn Phùng (Tập), Phó Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, Chính trị viên Tỉnh đội làm Phó Chính uỷ; đồng chí Lê Tấn Thuận (Nhất), Phó Chính trị viên Tỉnh đội Kon Tum làm Phó Tư lệnh cánh quân phía đông.
Mặt trận chính ở thị xã, lực lượng ta trực tiếp tham gia chiến dịch gồm: Mặt trận B3 có Trung đoàn bộ binh 24, gồm 3 tiểu đoàn bộ binh (4, 5, 6) và các phân đội trực thuộc. Các đơn vị tỉnh Kon Tum gồm: Tiểu đoàn bộ binh 304, gồm có 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội hỏa lực; Tiểu đoàn đặc công 406, gồm có 3 đại đội (207, 208, 209); Đại đội công binh 6 và Đại đội trinh sát. Các đơn vị của thị xã Kon Tum gồm: Đội biệt động và vận động quần chúng (A25), 1 trung đội an ninh vũ trang. Ngoài ra Mặt trận B3 còn tăng cường cho tỉnh Kon Tum Đại đội hỏa lực 31 ĐKB.
Những ngày giáp Tết Mậu Thân năm 1968, khí thế tổng tiến công và nổi dậy bừng bừng khắp nơi. Ta tổ chức cho bộ đội và lực lượng tham chiến ăn Tết trước chiều 29/01/1968. Sau đó, các lực lượng cán bộ, đảng viên, đội công tác, biệt động, tự vệ mật cùng Tiểu đoàn đặc công 406 và Tiểu đoàn bộ binh 304 của tỉnh bí mật hành quân vào các vị trí tập kết trong thị xã, chiếm lĩnh các trận địa. Riêng Tiểu đoàn 406 đặc công cải trang thành lính ngụy tiến sâu vào nội thị. Tất cả các lực lượng đều sẵn sàng đợi lệnh tấn công theo đúng giờ G được quy định thống nhất toàn mặt trận.
Đêm 29 rạng sáng 30/01/1968 (tức là rạng sáng mồng 1 Tết Mậu Thân), cùng với toàn miền Nam, quân dân tỉnh Kon Tum nổ súng mở màn chiến dịch, tấn công đồng loạt 23 mục tiêu quan trọng của địch tại hai vùng trọng điểm của thị xã Kon Tum và Đăk Tô - Tân Cảnh. Dưới sự điều hành chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy thống nhất, các lực lượng vũ trang đồng loạt tấn công vào các vị trí theo kế hoạch, có sự phân công chu đáo, chặt chẽ cho từng cánh quân, làm cho địch bất ngờ không kịp trở tay, ta đã nhanh chóng giành thắng lợi.
Tại căn cứ Đăk Tô - Tân Cảnh, lực lượng vũ trang địa phương và Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 174 chủ lực, tấn công mạnh mẽ vào hậu cứ địch, đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn thị trấn Đăk Tô - Tân Cảnh, tiêu diệt đồn cảnh sát, đánh phá khu dồn Đăk Prong, gồm cơ quan tổng xã của địch; đánh phá một số khu dồn khác; pháo kích uy hiếp quận lỵ Đăk Tô, làm tê liệt hoàn toàn khả năng phản kích của địch.
Hướng trọng điểm thị xã Kon Tum được chia ra bốn mũi tấn công, đánh vào các mục tiêu đã quy định. Tiểu đoàn bộ binh 304 (thiếu 1 đại đội) xuất phát từ hướng đông bắc thị xã đánh vào sân bay Kon Tum. Hướng tây bắc, 1 đại đội của Tiểu đoàn bộ binh 304, đánh chiếm ngã ba Phương Quý, Tiểu đoàn đặc công 406 tiến công Dinh Tỉnh trưởng, Tòa hành chính, Tỉnh đoàn bảo an, Tiểu khu cảnh sát và Tiểu khu Kon Tum, Đội biệt động thị xã đánh chiếm khu cư xá sĩ quan Mỹ. Sau 30 phút chiến đấu, quân ta đánh chiếm và làm chủ hai phần ba thị xã, trong đó có các khu vực quan trọng là Toà hành chính ngụy, Ty cảnh sát ngụy, tiểu khu Kon Tum và sân bay Kon Tum. Trung đoàn bộ binh 24 hành quân di chuyển chậm, tiếp cận Biệt khu 24, khu huấn luyện 41, 42 mất yếu tố bất ngờ, địch phản kích quyết liệt, không phát triển được buộc phải chuyển vào phòng ngự. Đại đội công binh 6 tiếp cận cầu Đăk Bla bị gặp biệt kích, thương vong, không giữ được bí mật nên không đánh được cầu; Đội an ninh vũ trang thị xã tiếp cận mục tiêu trại giam chậm, địch đã triển khai bảo vệ vòng ngoài nên không đánh chiếm được.
Trên hướng phối hợp tại H16 và các vùng phụ cận, bộ đội cùng du kích đánh mạnh buộc địch phải rút chạy bỏ đồn Kon Tum, Kon Rốc ở Ngọc Réo, giải phóng toàn bộ xã Đăk Cấm, Đăk Blà. Lợi dụng địa thế địa hình tấn công địch, ta bao vây đồn Kleng, ép địch từ hướng tây, mở rộng vùng đông, tây thị xã trên trục đường Kroong - Kon Tum và Kon Tum - Kon Praih, giải phóng bảy ấp chiến lược ở vùng này.
Suốt thời gian quân dân ta tấn công vào thị xã và các vùng trọng điểm, các cơ sở mật đã cùng nhân dân tiếp tế lương thực, thực phẩm, tải thương, chăm sóc thương binh, hỗ trợ cho bộ đội truy kích địch. Bên trong thị xã, các cơ sở mật cùng đông đảo quần chúng xuống đường đấu tranh chính trị, bao vây làm tan rã và tê liệt hoàn toàn bộ máy ngụy quyền các cấp từ trung tâm tỉnh lỵ đến quận, huyện, xã, phường.
Sau một thời gian choáng váng vì đòn tấn công hiểm hóc, sấm sét của quân và dân ta, địch củng cố lại lực lượng và tổ chức phản kích ta khá mạnh. Được tăng viện cấp tốc, địch dùng máy bay ném bom vào các vị trí đóng quân của ta trong thị xã, dùng lực lượng tổng hợp nhiều thành phần phản công quyết liệt hòng giành lại những gì đã mất. Do không đủ sức để giữ thị xã ta tổ chức rút quân, củng cố lực lượng chuẩn bị cho các đợt tiến công tiếp theo.
Trong đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân trong tỉnh đã đánh chiếm hầu hết các mục tiêu tại các hướng trọng điểm theo dự kiến định sẵn. Từ ngày 29/01/1968 đến 07/02/1968, trên toàn chiến dịch, ta diệt và loại khỏi vòng chiến hơn 1.500 tên địch (trong đó có 650 lính Mỹ), phá huỷ và đánh hỏng 253 xe quân sự (trong đó có 67 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi và phá huỷ 37 máy bay, đánh phá năm kho xăng dầu, ba kho đạn và nhiều nhà lính, công sở Mỹ - ngụy. Quần chúng phối hợp vùng lên khởi nghĩa phá thế kìm kẹp của địch, giải phóng hầu hết dân cư ở các vừng trọng điểm, ven thị xã, quận lỵ và dọc tuyến giao thông quan trọng đường 14, làm tê liệt toàn bộ bộ máy ngụy quyền từ tỉnh đến làng xã. Một số đơn vị nghĩa quân của địch nổi dậy hỗ trợ nhân dân phá ấp, đồn bốt rồi bỏ hàng ngũ địch, nộp vũ khí về với cách mạng.
Đêm 13 rạng sáng 14/02/1968, ta tiếp tục tấn công đợt hai vào các căn cứ quân sự địch; pháo kích mạnh vào căn cứ pháo binh ngụy ở Kon Tum, bao vây căn cứ Kleng, tiến công tiêu diệt một tiểu đoàn bảo an ở Trung Nghĩa, Kon Xâm Lũ. Ta chặn đánh các cuộc phản kích của địch trên đường 14, diệt nhiều sinh lực, bắn rơi nhiều máy bay, phá thêm nhiều ấp chiến lược, giải phóng đồng bào bị địch ép vào khu dồn dân.
Ngày 03/3/1968, ta mở đợt ba của chiến dịch, tiếp tục tấn công vào các căn cứ quân sự Mỹ - ngụy, tập trung đánh phá giao thông trên các đường chiến lược như đường 14, 5, 18 bằng nhiều trận phục kích lớn. Vùng giải phóng được củng cố vững chắc và mở rộng ở một số nơi. Quân ta đánh mạnh, các con đường chiến lược ở tỉnh Kon Tum trở thành những con đường nhuộm máu và mồ chôn quân Mỹ - ngụy. Các cứ điểm Kon Praih, Chưgrết đều bị lực lượng vũ trang ta thường xuyên tập kích, ở nhiều vùng khác trong tỉnh, địch bị ta liên tục tấn công, nhất là quanh các cứ điểm Đăk Tô, Đăk Pét, Măng Đen làm cho sinh lực địch bị tiêu hao nặng, một số ấp bị phá, giải phóng thêm nhiều vùng nông thôn, quần chúng phấn khởi, phong trào nông thôn phát triển hơn trước.
Tổng hợp kết quả đánh địch đến tháng 5/1968 tại chiến trường Kon Tum, ta đã tiêu diệt 3.460 tên (trong đó có 1.594 lính Mỹ), phá huỷ 110 xe quân sự, 35 máy bay.
Thắng lợi giành được trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là to lớn và toàn diện, làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam, Đông Dương và cả nước Mỹ. Ta đã tạo thế đánh bất ngờ táo bạo, phát triển cuộc chiến tranh vào sâu trong lòng địch, tận sào huyệt của chúng, buộc địch phải đối phó bị động, bất ngờ và lúng túng, chịu thất bại cay đắng. Thắng lợi trên toàn chiến trường miền Nam buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương tuyên bố xuống thang chiến tranh, từng bước thực hiện “phi Mỹ hóa chiến tranh". Quân Mỹ từ bỏ biện pháp chiến lược "tìm và diệt", chuyển sang thực hiện chiến lược "quét và giữ".
Bài, ảnh: Nguyễn Hoàng Nam
(Tỉnh đội Kon Tum)