Những ngày cuối năm 2024 chúng tôi có chuyến công tác về Sa Thầy, gặp các nhân chứng lịch sử để tham mưu xây dựng Đề án của Tỉnh uỷ xác định vị trí đứng chân của các cơ quan, đơn vị trong kháng chiến. Trong chuyến công tác này, chúng tôi được gặp vợ chồng ông A HLáo, bà Y Phyen và người em gái Y BLỷ. Họ là những người con của làng Kênh, những cán bộ của huyện H67 - Sa Thầy trong kháng chiến và được nghe câu chuyện hào hùng về làng Kênh, xã Mô Rai chống Mỹ.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làng Kênh thuộc xã Hơdrai. Khoảng đầu năm 1976, xã Hơdrai và Ia Mô nhập lại thành xã Mô Rai. Làng Kênh thuộc xã Mô Rai kể từ đó.
Bà Y Phyen và Y BLỷ là hai chị em gái. Cha của các bà là chiến sĩ cách mạng, tham gia kháng chiến từ những năm đầu chống Pháp. Những năm 1951-1952, ông tham gia cùng đội vũ trang xây dựng cơ sở cùng với ông Trần Thanh Dân (sau này là Phó Bí thư Tỉnh uỷ). Lấy làng Điệp Lốk (nay thuộc xã Ia Tăng, huyện Sa Thầy) làm bàn đạp, xây dựng căn cứ ở địa bàn xã Ya Ly rồi tiến dần lên bắt nối dần lên toàn bộ địa bàn huyện Sa Thầy, đến niên giới giáp Lào và Campuchia. Làng Kênh quê hương ông trở thành cơ sở cách mạng từ ngày ấy. Nhân dân đã được giác ngộ ủng hộ, nuôi giấu cán bộ và tham gia kháng chiến.
Ông A HLáo cũng là một trong số những thanh niên trai tráng của làng được vinh dự tham gia trong đội công tác xây dựng cơ sở từ thời chống Pháp đến thời chống Mỹ. Ông làm nhiệm vụ đưa đón cán bộ. Sau này là du kích, Xã đội trưởng rồi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.
Từ thuở nhỏ, chị em Y Phyen đã theo chân cha trên khắp nẻo đường hoạt động cách mạng. Chừng 12,13 tuổi các chị đã được giao nhiệm vụ làm liên lạc cho cha và các chú. Lớn lên một chút, các chị tham gia đoàn thanh niên chống Mỹ, vận động tầng lớp thanh niên trong làng, trong xã cùng tham gia đánh giặc. Y Phyen và Y BLỷ đều trưởng thành từ phong trào thanh niên chống Mỹ, kinh qua nhiệm vụ Bí thư đoàn xã, Bí thư huyện đoàn, Chủ tịch Hội phụ nữ huyện H67.
Trong niềm tự hào và xúc động, Y Phyen nhớ lại thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, nhiệt huyết. Hồi đó bà là thiếu nữ xinh đẹp có tiếng trong vùng. Xã Hơdrai quê hương của bà, địch đóng đồn K’Đin, án ngữ trên tuyến hành làng biên giới. Để giúp bộ đội ta đánh đồn K’Đin, bà được cấp trên giao nhiệm vụ kết thân với bọn lính trong Đồn để tìm hiểu địa hình của chúng. Thiếu nữ Y Phyen đã rất lo lắng, căng thẳng về nhiệm vụ nặng nề này. Nhưng tinh thần quyết tâm cách mạng đã át đi nỗi sợ hãi ấy. Bà đã tiếp cận, kết bạn thành công với cả tên Đồn trưởng. Một ngày nọ, Y Phyen gợi ý muốn vào thăm Đồn, với lý do “Y Phyen quí bạn, muốn đem quà vào thăm!”. Thế là, Y Phyen cùng vài người bạn vào Đồn thành công. Vào trong Đồn rồi, bà tìm cách hỏi chuyện đường đi ra, đường đi vào … để về báo lại cho các chú, các anh biết.
Tháng 9-1961, phối hợp với các đợt tấn công và nổi dậy toàn tỉnh, huyện H67 phát động nhân dân nổi dậy chuyển lên thế “bất hợp pháp” nhằm mở rộng vùng căn cứ, bảo vệ hành lang chiến lược. Nhân dân làng Kênh cùng các làng trong xã phấn khởi bí mật chuẩn bị mọi điều kiện để phối hợp tác chiến. Đêm mùng 5 rạng sáng ngày 6-9-1961, lực lượng đặc công tỉnh và lực lượng vũ trang tấn công đồn bức rút đồn K,Đin, Khúk Na giải phóng thung lũng Hơdrai. Quân địch chống cự quyết liệt. Bộ đội ta hy sinh khá nhiều. Một số cơ sở trung kiên trong xã phối hợp tiến hành công tác binh vận, dùng loa gọi hàng, nhưng lực lượng chưa đủ mạnh nên không hiệu quả. Mãi đến ngày 14-9-1961 chúng phải dùng trực thăng đổ quân xuống giải vây, hỗ trợ cho binh lính đồn K,Đin đánh trả. Mặc dù chưa san phẳng được đồn địch nhưng đã làm cho binh lính một phen khiếp sợ. Nhân dân làng Kênh cùng với làng Xộp, K’Đin, Le, Noh, Rơ Mal nổi dậy, giải tán ngụy quyền, chuyển vào rừng, bố phòng, lập chính quyền tự quản, làm chủ phần lớn thung lũng Hơdrai. Từ đây, xã Hơdrai trở thành xã căn cứ kháng chiến của huyện H67. Vùng căn cứ H67 lúc bấy giờ nối liền từ vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia đến thung lũng Ia Tri, chạy dọc biên giới. Riêng làng Kênh đợt ấy một số hộ dân đã bị địch bắt dồn về Tây Nam thị xã Kon Tum.
Nhưng dù ở đâu, dân làng Kênh vẫn một lòng trung thành với cách mạng. Tại thung lũng làng Kênh, dân làng đã bao bọc, che chở cho các cơ quan huyện H67 trụ bám, chỉ đạo hoạt động. Cũng khoảng năm 1961, cơ quan Huyện ủy H67 dời vào hang đá tại làng Kênh. Du kích xã được tổ chức thành từng bộ phận chuyên trách: Soi đường, tuần tra canh gác, chống thám báo, biệt kích, tải đạn, tải thương… bảo vệ khu căn cứ và bảo vệ cơ quan Huyện ủy. Tại khu vực hang đá này, Đảng bộ huyện H67 đã tổ chức thành công các kỳ đại hội Đảng bộ huyện trong điều kiện chiến tranh khốc liệt.
Ở vùng phía trước - vùng địch chiếm đóng, những người dân làng Kênh bị dồn về khu ấp chiến lược Tây Nam thị xã vẫn một lòng hướng về cách mạng, tìm cách bí mật móc nối với các chiến sĩ đội công tác của huyện. Ngay trong vòng vây của địch, dân làng Kênh cùng làng Blút, Lai, Bua, Vel, Klêu, làng Chứ ở Tây Nam thị xã vẫn trở thành cơ sở của cách mạng. Năm 1966, dân làng Kênh cùng các làng ở ấp Tây Nam thị xã đã nổi dậy phá ấp chiến lược, làm tan rã các trung đội nghĩa quân, đưa 51 dân về vùng căn cứ. Mùa Xuân năm 1975, khi các đơn vị vũ trang tiến công giải phóng thị xã Kon Tum, dân làng Kênh cùng với các làng ở Tây Nam thị xã đã sẵn sàng nổi dậy, phá ấp chiến lược, bung về làng cũ.
Theo lời bà Y Phyen, không chỉ người làng Kênh mà hầu hết các làng của huyện H67 có tinh thần cách mạng rất cao. Ngay cả những người bị buộc phải làm tay sai của nguỵ vẫn hướng về cách mạng. Vì thế, cha của bà bảy lần bị địch bắt, tra tấn nhưng nhờ lời nói “bảo vệ” của trưởng làng Khúk Na mà địch không làm gì được, buộc phải thả ông. Và, còn có một câu chuyện đặc biệt xúc động nữa là, thời kháng chiến cha bà Y Phyen từng cắt máu ăn thề cùng đồng chí Nguyễn Văn Tiềm, nguyên là Bí thư Tỉnh uỷ. Kể từ đó, anh Tiềm trở thành người anh trong gia đình bà. Đến nay, gia đình ông A HLáo, bà Y Phyen dành nơi trang trọng nhất trong ngôi nhà để thờ người anh từng “vào sinh, ra tử” với gia đình mình.
Trong suốt những năm tháng kháng chiến, nhiều người con của làng Kênh nói riêng, xã Mô Rai nói chung đã trở thành những chiến sĩ giao liên, đội viên du kích; những chị em phụ nữ là những dân quân cõng hàng, tải đạn trên tuyến đường vận chuyển qua làng, qua xã, qua huyện... từ cụ già đến em bé đều góp sức mình cho cuộc kháng chiến đến ngày toàn thắng. Nhân dân làng Kênh, nhân dân xã Mô Rai rất đỗi tự hào và biết ơn những người con anh hùng; biết ơn những người mẹ Y Bel, Y Byơl, Y Bình, Y E, Y Pun, Y Vao đã chịu mất mát, hy sinh vì chồng, con hiến dâng mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Và hôm nay, thế hệ chúng tôi rất đỗi tự hào được nghe chuyện làng Kênh, Mô Rai chống Mỹ.
Bài, ảnh: Trần Thị Sáu