Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum

https://tuyengiaokontum.org.vn


Tài liệu sinh hoạt chi bộ tháng 04-2019

A. NỘI DUNG TRỌNG TÂM SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 04-2019
- Lãnh đạo tuyên truyền kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quý I và triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quý II-2019 ở các địa phương, đơn vị. 
Tuyên truyền các hoạt động nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch); Kỷ niệm 149 năm Ngày sinh V.I.Lênin (22/4/1870 - 22/4/2019); 115 năm Ngày sinh đồng chí Trần Phú, nguyên Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (1/5/1904-1/5/2019); 44 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (30/4/1975-30/4/2019), nội dung tuyên truyền theo Hướng dẫn số 48-HD/BTGTU, ngày 13-12-2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
- Ngoài ra, tiếp tục tuyên truyền mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 (theo Hướng dẫn số 52-HD/BTGTU, ngày 23-01-2019 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy); kết quả thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2025 (Kết luận số 927-KL/TU, ngày 02-5-2018).
Tuyên truyền Công tác thông tin đối ngoại; tuyên truyền biển, đảo; công tác biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam- Lào, Việt Nam- Campuchia năm 2019 (theo Hướng dẫn số 53-HD/BTGTU, ngày 01-02-2019 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy). Tuyên truyền kết quả công tác phòng, chống tham nhũng; nêu bật, khẳng định những kết quả, tác động tích cực của công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.  Tuyên truyền công tác tìm kiếm, quy tập và xác định hài cốt liệt sỹ còn thiếu thông tin (theo Công văn số 215/BTTTT-TTCS, ngày 23/01/2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông).
Tuyên truyền những điển hình tiêu biểu, mô hình hay, cách làm hiệu quả, bài học kinh nghiệm trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về triển khai thực hiện chuyên đề năm 2019: “Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”  của các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao cảnh giác trước những âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ bí mật nhà nước liên quan đến quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh…
B. THÔNG TIN THỜI SỰ
I. THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
Chuyên đề 1: Quy định về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ
Ngày 25-2-2019, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã ký ban hành Quy định số 179-QÐi/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ.
Quy định nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng, sự đoàn kết thống nhất, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Ðảng trong công tác cán bộ; đánh giá đúng công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện đúng quy định; góp phần chủ động phòng ngừa, ngăn chặn nạn chạy chức, chạy quyền, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…
Về chế độ kiểm tra công tác cán bộ, quy định nêu rõ, đối với cán bộ, đảng viên, phải thường xuyên tự kiểm tra, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm trong công tác và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.
Ðịnh kỳ hằng năm, cán bộ, đảng viên tự phê bình và phê bình ở chi bộ và cấp ủy, tổ chức chính quyền, đoàn thể mà mình là thành viên. Ðồng thời, chi bộ nơi cư trú có ý kiến nhận xét về bản thân cán bộ, đảng viên và gia đình trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương...
Về chế độ giám sát công tác cán bộ, tổ chức đảng cấp trên có chương trình, kế hoạch giám sát công tác cán bộ thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý, lĩnh vực được phân công phụ trách hoặc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy giám sát các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, tổ chức đảng thuộc quyền quản lý, cấp ủy cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ các đơn vị làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ.
Ban tổ chức và ủy ban kiểm tra giám sát tổ chức đảng thuộc cấp ủy quản lý, cấp ủy cấp dưới và các ban của cấp ủy cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, người đứng đầu các ban của cấp ủy cùng cấp và cán bộ các đơn vị làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ…
Quy định xác định thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, giám sát như được quyết định hoặc đề nghị, yêu cầu hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ; được yêu cầu tạm dừng việc thực hiện các nội dung trong công tác cán bộ đối với cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm; chuyển ủy ban kiểm tra hoặc báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải quyết những trường hợp cán bộ và tổ chức đảng được phát hiện có dấu hiệu vi phạm…
Quy định cũng nêu rõ phương pháp, hình thức kiểm tra, giám sát; đồng thời hướng dẫn cụ thể các nội dung kiểm tra, giám sát gồm điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ; công tác tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ; công tác đánh giá cán bộ; công tác quy hoạch cán bộ; công tác điều động, luân chuyển cán bộ; việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ; việc thực hiện chính sách cán bộ…
Quy định này thay thế Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ban hành kèm theo Quyết định số 58-QÐ/TW (ngày 7-5-2007) của Bộ Chính trị.
Chuyên đề 2: Định hướng tuyên truyền về chuyến thăm Lào và Cam-pu-chia của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Từ ngày 24 đến 26/2/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và thăm cấp Nhà nước Vương quốc Cam-pu-chia.
Tuyên truyền về chuyến thăm tập trung vào 06 nội dung lớn sau:
1) Tiếp tục tuyên truyền về kết quả, ý nghĩa đặc biệt chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trên cả hai cương vị: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước; khẳng định chính sách nhất quán và sự coi trọng cao độ của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong quan hệ với Lào và Cam-pu-chia, hai nước láng giềng chung phên dậu, có quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó lâu đời và có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt đối với Việt Nam; khẳng định ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong việc thắt chặt quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, và quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Cam-pu-chia, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn diện các lĩnh vực hợp tác với hai nước anh em.
Tăng cường tuyên truyền mục đích chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Đối với Lào: (a) Khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam đặc biệt coi trọng và dành ưu tiên cao trong quan hệ với Lào; củng cố, tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt, gắn bó, tin cậy và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước; (b) Khẳng định sự ủng hộ toàn diện đối với công cuộc đổi mới, bảo vệ và xây dựng đất nước Lào, nhất là việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội X và chuẩn bị tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; (c) Chủ trương, định hướng các nội dung hợp tác, biện pháp lớn được lãnh đạo hai bên thông qua nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác Việt Nam - Lào trên tổng thể các lĩnh vực hợp tác.
Đi với Cam-pu-chia: (a) Khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với Cam-pu-chia đi vào chiều sâu, ổn định bền vững; (b) Tăng cường sự tin cậy, gắn bó giữa Đảng ta với CPP; (c) Các định hướng, biện pháp lớn được lãnh đạo hai bên thông qua nhằm thúc đẩy quan hệ song phương trong giai đoạn mới; tạo điều kiện chính trị thuận lợi để thúc đẩy giải quyết một số vấn đề còn tồn tại trong quan hệ giữa hai nước.
2) Tuyên truyền, khẳng định chủ trương nhất quán về đối ngoại của Việt Nam trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, theo tinh thần Đại hội thứ XII của Đảng.
3) Tuyên truyền khẳng định chuyến thăm thể hiện sự tin cậy, gắn bó giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước và nhân dân Lào, với Đảng Nhân dân Cam-pu-chia, Nhà nước và nhân dân Cam-pu-chia; đã tạo dấu mốc, động lực thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia trong thời gian tới.
4) Tuyên truyền khẳng định sự coi trọng cao độ và quyết tâm của Lãnh đạo 3 nước trong việc không ngừng củng cố tin cậy chính trị đặc biệt, vun đắp tình đoàn kết hữu nghị và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào và Việt Nam - Cam-pu-chia ngày càng khăng khít và sâu sắc; là sức mạnh và nhân tố quyết định sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc ở mỗi nước; là tài sản chung vô giá phải được gìn giữ, phát huy và truyền tiếp cho các thế hệ mai sau.
5) Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại về truyền thống đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia trong cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ ba nước; nhấn mạnh triển vọng quan hệ hợp tác của Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia trên các lĩnh vực, đặc biệt là trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước của cả ba dân tộc vì lợi ích chung của nhân dân ba nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
6) Kiểm soát và xử lý thông tin về các vấn đề nhạy cảm, những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ giữa nước ta với hai nước Lào và Cam-pu-chia, như vấn đề biên giới, dân tộc theo hướng có lợi cho quan hệ hai bên cũng như hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
(Trích “Tài liệu thông tin nội bộ về chuyến thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và thăm cấp Nhà nước Vương quốc Cam-pu-chia của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng” ban hành tại Công văn số 6009-CV/BTGTW, ngày 12-3-2019 của Ban Tuyên giáo Trung ương)
II. TIN TRONG TỈNH
1. Ngày 18-3, tại huyện Kon Plông, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cùng đoàn công tác Trung ương đã có buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum.
Tiếp và làm việc với đoàn có các đồng chí: Nguyễn Văn Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Y Mửi – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Hòa – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; A Pớt – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND – UBND tỉnh và lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh.
Báo cáo của tỉnh Kon Tum cho biết, trong năm 2018 và 02 tháng đầu năm 2019, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Trung ương, đồng thời tập trung xây dựng và lãnh đạo triển khai Chương trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ tỉnh và đã đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn tỉnh tăng 9,28% so với năm 2017, vượt kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt hơn 2.808 tỷ đồng, vượt 129,35% so với dự toán. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 34,77 triệu đồng năm 2017 lên 37,49 triệu đồng.
Nông nghiệp phát triển theo chiều sâu; việc dồn đổi, tích tụ đất nông nghiệp để xây dựng “cánh đồng lớn” phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được chỉ đạo quyết liệt và hình thành được một số cánh đồng lớn. Đã tạo ra được các vùng chuyên canh Sâm Ngọc Linh Kon Tum và bước đầu có sản phẩm công nghiệp chế biến với diện tích khoảng 500ha.
Toàn tỉnh đã thu hút được 52 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 9.659 tỷ đồng; tạo điều kiện để các doanh nghiệp khảo sát, tìm hiểu cơ hội đầu tư 23 dự án (trong đó, 06 dự án trồng Sâm Ngọc Linh và các dược liệu khác; 11 dự án về lĩnh vực thương mại dịch vụ; 02 dự án điện mặt trời; 03 dự án điện gió; 01 dự án thủy điện).
Đến nay, toàn tỉnh có 17 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới (trong đó 13 xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới); 102 xã, phường, thị trấn giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở; 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Công tác giáo dục nghề nghiệp, tạo việc làm cho người lao động tiếp tục được quan tâm. An sinh xã hội được chú trọng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 17,29%...
Đặc biệt, trong năm 2019 Kon Tum xác định 03 lĩnh vực đột phá gồm: (1) Tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, các khu đô thị mới kết hợp với dịch vụ, nhất là trên địa bàn thành phố Kon Tum. Đẩy mạnh đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp - đô thị - dịch vụ; trong đó chú ý công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu và hệ thống xử lý nước thải trong khu, cụm công nghiệp; (2) Phát triển nông nghiệp đi vào chiều sâu theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ; bảo tồn, đầu tư phát triển có hiệu quả những loại cây dược liệu, nhất là dược liệu dưới tán rừng; có chiến lược đầu tư phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu Sâm Ngọc Linh Kon Tum, Đẳng sâm Kon Tum và các sản phẩm đặc hữu khác; (3) Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hình thành Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh; tăng cường xúc tiến đầu tư, hỗ trợ khởi nghiệp.
Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch Quốc hội hoan nghênh, biểu dương những thành tích đạt được trên hầu hết các lĩnh vực của tỉnh Kon Tum thời gian qua. Đồng thời, đánh giá cao sự chủ động xác định 3 vùng kinh tế động lực của tỉnh Kon Tum để phát triển kinh tế cách đây 12 năm với những giải pháp trọng tâm để đến nay đã hoàn thành một số chỉ tiêu chủ yếu và 3 lĩnh vực đột phá của tỉnh Kon Tum trong phát triển KT-XH năm 2019.
Chủ tịch Quốc hội cũng đánh giá cao việc tiên phong trong cải cách thủ tục hành chính thu hút các doanh nghiệp tới khảo sát tìm hiểu cơ hội đầu tư và thành lập doanh nghiệp của tỉnh.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý, tỉnh phải phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao và xây dựng thương hiệu sâm Ngọc Linh, Đảng sâm Kon Tum; thực hiện chủ trương dồn điền đổi thửa, tích tụ đất để Kon Tum từng bước hình thành vùng chuyên canh, tạo ra thương hiệu những sản phẩm chủ lực của tỉnh.
Ngoài ra, Chủ tịch Quốc hội cũng yêu cầu tỉnh Kon Tum cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hình thành trung tâm hành chính công cấp tỉnh; tăng cường bộ máy tổ chức, bộ máy công vụ, kỷ cương, trách nhiệm.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý thêm: “Khu vực Tây Nguyên là một trong những địa bàn chiến lược, việc giữ vững an ninh chính trị ở Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, đề nghị tỉnh Kon Tum tiếp tục triển khai thực hiện tốt kế hoạch, phương án đảm bảo quốc phòng an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội”.
Chủ tịch Quốc hội mong muốn Đảng bộ tỉnh Kon Tum tiếp tục đoàn kết, thống nhất thực hiện thắng lợi các Nghị quyết kinh tế - xã hội năm 2019 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra.
Sáng cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và đoàn công tác đã có buổi làm việc với huyện Kon Plông và gặp gỡ bà con làng văn hóa du lịch cộng đồng Kon Pring, xã Đăk Long.
- Với huyện Kon Plông, Chủ tịch Quốc hội bày tỏ vui mừng trước những thành quả của huyện 30a với trên 80% dân là đồng bào DTTS đạt được như tỷ lệ che phủ rừng rất cao (chiếm 80%), điều đó chứng tỏ địa phương đã rất quan tâm đến công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội đã quyết định tặng huyện Kon Plông 2 trường Tiểu học và THCS với tổng kinh phí khoảng 12 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa.
- Đến thăm bà con Rơ Mâm làng văn hóa du lịch cộng đồng Kon Pring, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân ân cần thăm hỏi sức khỏe, đời sống; bày tỏ phấn khởi khi được đến thăm bà con; vui mừng khi thấy người dân tích cực lao động, sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Nhân chuyến công tác tại tỉnh Kon Tum, chiều 17-3, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã đến thăm, tặng quà 02 gia đình chính sách tại thành phố Kon Tum; thăm thân nhân gia đình bà Y Một, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII, VIII. 
2. Chiều 13-3, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh có buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Kon Tum về tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh trong năm 2018 và 2 tháng đầu năm 2019.
Tiếp và làm việc với đồng chí Phó Chủ tịch nước có các đồng chí: Nguyễn Văn Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Y Mửi - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Hòa - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo các sở ngành của tỉnh.
Năm 2018 và 2 tháng đầu năm 2019, kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum đã đạt được nhiều kết quả khả quan: tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2018 đạt 13.443 tỷ đồng, tăng 9,28% so với cùng kỳ năm trước và vượt kế hoạch đề ra; tổng thu ngân sách nhà nước 2.808 tỷ đồng, đạt 129,35% so với dự toán; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt được kết quả tích cực; công tác thu hút đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh được tăng cường và đạt nhiều kết quả, trong đó tỉnh đã cấp phép đầu tư (lũy kế) cho 311 dự án đầu tư, với tổng vốn đăng ký gần 57.690 tỷ đồng (trong năm 2018 thu hút được 52 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 9.659 tỷ đồng); công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện, tổng số hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh đến cuối năm 2018 giảm còn 22.851 hộ, chiếm tỷ lệ 17,29%, mức giảm tỷ lệ hộ nghèo là 4,08%, vượt kế hoạch đề ra...
Phát biểu tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch nước ghi nhận và biểu dương những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum, đặc biệt là chỉ số về tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách đạt cao, nông nghiệp tăng trưởng khá và bước đầu đã triển khai ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; có sáng kiến tổ chức sự kiện giới thiệu, triển lãm sâm Ngọc Linh tại Hà Nội để quảng bá và thu hút đầu tư; đề ra các lĩnh vực đột phá trong năm 2019 để tập trung phát triển; công tác giảm nghèo, y tế, giáo dục cũng đạt được kết quả cao; thực hiện tốt công tác cán bộ...
Phó Chủ tịch nước đề nghị tỉnh Kon Tum tập trung dồn lực cho việc xây dựng nông thôn mới, cho công tác giảm nghèo, trong đó cần đặc biệt quan tâm hơn đến công tác đào tạo nghề và xuất khẩu lao động; xây dựng văn hóa công sở, trong đó tập trung đạo đức công vụ; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ tỉnh đề ra.
Tại buổi làm việc, đồng chí Phó Chủ tịch nước đã trao tặng 200 triệu đồng cho Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh Kon Tum.
* Trước đó, vào sáng 13-3, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh đã dự Hội nghị Tổng kết giao ước thi đua năm 2018, ký kết giao ước thi đua năm 2019 của Cụm thi đua các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung tổ chức tại thành phố Kon Tum.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng trước sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh trong khu vực. Đồng chí đánh giá cao sự nỗ lực cùng thành tựu đạt được của các tỉnh trong triển khai thực hiện 3 phong trào thi đua yêu nước lớn của Trung ương là “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” và “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển” với các chỉ tiêu đều tăng so với kế hoạch đề ra.
Đồng chí Phó Chủ tịch nước chỉ đạo trong thời gian tới, lãnh đạo các địa phương cần năng nổ hơn nữa, bứt phá hơn nữa, có nhiều cách làm hay, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, tránh làm theo phong trào, làm cho có, phát động rồi để đó, không kiểm tra việc thực hiện như thế nào. Đặc biệt, Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các tỉnh cần quan tâm chỉ đạo quyết liệt hơn nữa để các phong trào thi đua ngày càng hiệu quả, thiết thực và lan tỏa, phấn đấu đạt được các chỉ tiêu cao hơn năm 2018.
* Nhân dịp tổng kết giao ước thi đua năm 2018, tối 12-3, tại Hội trường Ngọc Linh (thành phố Kon Tum), Cụm thi đua các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung tổ chức chương trình giao lưu với những điển hình tiên tiến phong trào thi đua yêu nước trong khu vực.
3. Chiều 14-3, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Hòa chủ trì buổi làm việc triển khai các giải pháp cấp bách trong xây dựng nông thôn mới đối với các xã mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020 và các xã đạt chuẩn dưới 05 tiêu chí trên địa bàn tỉnh.
Theo báo cáo của ngành chức năng, đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 15 xã đạt chuẩn 19/19 tiêu chí (trong đó 13 xã được công nhận xã đạt chuẩn NTM), 06 xã đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, 22 xã đạt từ 10-14 tiêu chí, 41 xã đạt từ 5-9 tiêu chí, 02 xã đạt dưới 5 tiêu chí (giảm 08 xã so với năm 2015). Bình quân đạt 11,14 tiêu chí trên xã, tăng 2,44 tiêu chí so với năm 2015.
Tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh đã yêu cầu Chủ tịch UBND huyện Đăk Glei phối hợp chặt chẽ cùng các Sở, ban ngành liên quan rà soát, đánh giá lại cụ thể từng tiêu chí của 02 xã đạt chuẩn dưới 05 tiêu chí: Mường Hoong, Ngọc Linh để khắc phục và xây dựng các tiêu chí đạt chuẩn theo quy định, mục tiêu đến hết tháng 06 năm 2019 không còn xã dưới 05 tiêu chí.
Đối với 10 xã mục tiêu đạt chuẩn nông thôn mới trong giai đoạn 2016 - 2020 còn lại: Yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thành phố rà soát, đánh giá lại cụ thể mức độ đạt chuẩn nông thôn mới của các xã trên địa bàn quản lý, lựa chọn xã có khả năng đạt chuẩn trong năm 2019 và xác định các tiêu chí chưa đạt chuẩn, nhiệm vụ giải pháp trong thời gian tới; cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với Thủ trưởng các Sở, ban ngành liên quan để xây dựng thành công đạt chuẩn nông thôn mới đối với các xã đã lựa chọn trước tháng 9 năm 2019 theo yêu cầu của BCĐ Trung ương các Chương trình MTQG giai đoạn 2016 - 2020.
Riêng đối với 03 xã mục tiêu năm 2018 (xã Bờ Y - huyện Ngọc Hồi, xã Đăk Ngọc - huyện Đăk Hà, xã Kon Đào - huyện Đăk Tô): Yêu cầu Chủ tịch UBND huyện Đăk Tô, Đăk Hà và Ngọc Hồi phối hợp với Văn phòng điều phối Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh và các Sở, ban ngành liên quan khẩn trương đánh giá, hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới, trình cấp thẩm quyền thẩm định và công nhận đạt chuẩn theo quy định.
Ngoài ra, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, Thủ trưởng các Sở, ban ngành liên quan nâng cao tinh thần trách nhiệm của ngành và địa phương trong công tác xây dựng nông thôn mới, chịu trách nhiệm chính trước kết quả thực hiện xây dựng nông thôn được phân công phụ trách, và xem kết quả xây dựng nông thôn mới là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị, địa phương.
4. Sáng 26-3, UBND tỉnh tổ chức họp trực tuyến phiên thường kỳ đánh giá kết quả thực hiện phát triển KT-XH tháng 3 và quý I; triển khai nhiệm vụ trọng tâm tháng 4-2019 dưới sự chủ trì của Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Hoà.
Theo báo cáo, trong Quý I/2019, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân 2018-2019 được 10.892 ha, đạt 99,9% so với kế hoạch. Công tác triển khai thực hiện các lĩnh vực đột phá năm 2019 của tỉnh được quan tâm chỉ đạo sát sao, tạo được sự đồng thuận và quyết tâm trong toàn bộ hệ thống chính trị; tiến độ thu ngân sách đảm bảo (ước đạt 712 tỷ đồng, đạt 28,9% dự toán); tỷ lệ nợ xấu được duy trì ở mức thấp (dưới 2%); giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá; thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển; các chính sách xã hội được triển khai thực hiện bảo đảm sát đúng mục đích, đối tượng; công tác sắp xếp các đơn vị sự nghiệp được quan tâm chỉ đạo, tích cực thực hiện; hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng diễn ra thường xuyên; phong trào thể dục thể thao được đẩy mạnh; cải cách hành chính được thực hiện mạnh mẽ, kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đối ngoại địa phương ngày càng được mở rộng.
Tuy nhiên, trình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn chưa được xử lý dứt điểm (vẫn còn 30/60 ha sắn nhiễm bệnh khảm lá virus trên địa bàn huyện Ia H’Drai chưa được giải quyết; tình trạng bệnh lở mồm long móng con tồn tại ở 15 xã trên địa một số huyện). Tình trạng hạn hán, cháy rừng đang có nguy cơ đe dọa đến đời sống của người dân trên địa bàn toàn tỉnh. Khai thác lâm sản trái phép vẫn còn diễn ra...
Trong tháng 4, UBND tỉnh đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tăng cường theo dõi, đẩy mạnh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; đôn đốc, kiểm tra, thúc đẩy công tác cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm; xây dựng kế hoạch dự trữ và cung ứng hàng hóa cho các xã vùng sâu, vùng xa đảm bảo phục vụ mùa mưa bão lũ năm 2019. Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập; tăng cường phòng chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; đảm bảo công tác y tế, an toàn thực phẩm; tăng cường tuần tra, kiểm soát nhằm đảm bảo quốc phòng, quân sự và giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn...
Sau khi nghe ý kiến của các sở, ngành, địa phương, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Hoà yêu cầu các huyện, thành phố trên cơ sở các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Kế hoạch, Chương trình của UBND tỉnh và căn cứ vào tình hình thực tế địa phương tập trung triển khai thực hiện 3 lĩnh vực đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh; xây dựng chuỗi giá trị sản xuất gắn với phát triển cánh đồng lớn, thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm đặc trưng…
Chủ tịch UBND tỉnh lưu ý, các ngành, địa phương khi triển khai nhiệm vụ phải phân công người theo dõi, định ra thời gian hoàn thành, bố trí nguồn lực triển khai thực hiện; theo dõi, báo cáo, không chờ khi UBND tỉnh tổ chức họp mới báo cáo mà phải báo cáo thường xuyên khi vướng mắc; mạnh dạn triển khai, vướng mắc ở đâu tháo gỡ ở đó; bám sát cơ sở, chú trọng tạo việc làm, đảm bảo nâng cao thu nhập cho người dân.
Đồng chí cũng yêu cầu, các sở, ngành tập trung triển khai biện pháp phòng chống cháy rừng; siết chặt công tác quản lý dịch bệnh, công tác kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật vận chuyển ra vào tỉnh; cần kiểm tra ngay lại các tiêu chí đánh giá về công tác giảm nghèo theo phương pháp đa chiều còn ngờ vực theo kết luận giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội vừa qua. Đối với chương trình xây dựng nông thôn mới, các ngành có liên quan phải chịu trách nhiệm đối với những tiêu chí thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Sở Khoa học Công nghệ lưu ý ứng dụng hiệu quả các đề tài đã được chuyển giao phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương…
5. Sáng 7-3, Hội LHPN tỉnh tổ chức ngày Phụ nữ khởi nghiệp năm 2019  nhân kỷ niệm 1979 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và 109 năm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3.
Đến dự có các đồng chí: Y Mửi - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Hòa - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; A Pớt - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; Lê Thị Kim Đơn - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; đại diện lãnh đạo HĐND tỉnh và các sở, ban, ngành, đoàn thể liên quan; cùng đại diện Hội LHPN các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh.
Sau một năm triển khai Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” tại địa bàn tỉnh, các cấp Hội Phụ nữ đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền thiết thực, phát huy tốt vai trò kết nối, hỗ trợ nhằm nâng cao nhận thức cũng như khơi dậy tinh thần, tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ tỉnh tham gia phong trào khởi nghiệp.
Nhờ đó, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình khởi nghiệp của chị em phụ nữ bước đầu đạt được những kết quả khích lệ. Trong đó phải kể đến các mô hình như: Tổ hợp tác phụ nữ DTTS trồng cây hồng đẳng sâm của huyện Đăk Glei, tổ liên kết phụ nữ trồng cà phê xứ lạnh và thu mua nông sản xã Măng Cành (huyện Kon Plông), tổ liên kết phụ nữ trồng và kinh doanh rau an toàn của huyện Đăk Tô, tổ liên kết phụ nữ trồng lúa thơm tại xã Đăk La (huyện Đăk Hà)…
Tại buổi lễ, lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư trao Giấy chứng nhận cho 3 tác giả có ý tưởng khởi nghiệp, đồng thời các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh trao vốn hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh cho các tập thể phụ nữ trong tỉnh với số tiền 550 triệu đồng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh còn hỗ trợ tín dụng cho chị em phụ nữ vay vốn 1,5 tỷ đồng. Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh phối hợp tuyên truyền hỗ trợ kết nối người lao động về nhu cầu đào tạo nghề và tuyển dụng lao động nữ; Công ty Thuận An DMC giới thiệu các chương trình đi làm việc ở nước ngoài cho phụ nữ.
Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Hòa đề nghị, trong thời gian tới, các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về hỗ trợ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh, những yêu cầu của nền kinh tế xanh trong xu thế hội nhập hiện nay đến với cán bộ, đảng viên và toàn thể hội viên, phụ nữ nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề khởi nghiệp và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể trong việc hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp. Đồng thời, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành chức năng hỗ trợ chị em phụ nữ nâng cao năng lực về khởi nghiệp, sản xuất kinh doanh; định hướng cho chị em những lĩnh vực khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh mà tỉnh có thế mạnh và phù hợp với nhu cầu của thị trường để tập trung phát triển; kịp thời phát hiện những mô hình hay, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả để hỗ trợ và giới thiệu, quảng bá cho các địa phương, cá nhân khác học tập.
Đối với chị em phụ nữ, để vươn lên khẳng định mình trên thương trường thì chính bản thân phải nắm bắt những cơ hội, điều kiện mà Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp đã dành cho.
6. Chiều 15-3, Đoàn kiểm tra Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc do đồng chí Điểu K’ré - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Dân vận TW làm trưởng đoàn (sau khi đã làm việc trực tiếp tại Sở NN-PTNT và huyện Tu Mơ Rông) đã có buổi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum.
Tiếp và làm việc với Đoàn kiểm tra có các đồng chí: Y Mửi - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; A Pớt - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Lê Ngọc Tuấn - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; Nguyễn Thế Hải - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh và lãnh đạo các sở, ngành tỉnh.
Theo báo cáo của Tỉnh ủy, từ năm 2003 - 2018, thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc, cũng như triển khai các Nghị quyết 23 và 25 tại Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Tỉnh ủy Kon Tum đã ban hành Chương trình số 50 để phổ biến, quán triệt đầy đủ, kịp thời các nội dung liên quan các Nghị quyết trên đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền địa phương trong tỉnh xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch, đề án triển khai có hiệu quả về công tác dân tộc, tôn giáo và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc biệt, 15 năm tập trung công tác triển khai Nghị quyết 24-NQ/TW, Tỉnh ủy Kon Tum đã lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ việc huy động tối đa các nguồn lực đầu tư, lồng ghép thực hiện nhiều chính sách dành cho người dân ở vùng DTTS; thực hiện cơ bản các mục tiêu của Nghị quyết 24 về phát triển kinh tế, xã hội, giảm nghèo trên địa bàn. Cụ thể, đến cuối năm 2018, toàn tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều giảm còn 17,29%; trên 90% hộ dân được sử dụng điện; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; đã giải quyết cơ bản về nhà ở, đất ở cho người DTTS. Tỉnh cũng đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia chống mù chữ, hoàn thành và duy trì tốt kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS đã được thực hiện hiệu quả; công tác thực hiện kế hoạch hóa gia đình được triển khai đồng bộ.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng và củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở được chú trọng, với 100% thôn, làng, tổ dân phố có tổ chức Đảng và có đảng viên là người DTTS. Công tác đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở được chú trọng. Biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, đường biên, cột mốc được bảo vệ vững chắc. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội được thực hiện quyết liệt; trật tự an toàn giao thông được tăng cường; hoạt động đối ngoại ngày càng mở rộng...
Kết luận buổi làm việc, đồng chí Điểu K’re ghi nhận, thời gian qua, Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, góp phần tạo sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân cùng cả hệ thống chính trị hoàn thành cơ bản tốt các mục tiêu, chỉ tiêu liên quan. Đối với các kiến nghị của tỉnh Kon Tum, Đoàn kiểm tra tiếp thu, sẽ tổng hợp vào báo cáo trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 24 trong thời gian tới.
III. TIN TRONG NƯỚC
1. Một số nét chính về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta tháng 02 và 02 tháng đầu năm 2019; nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới
Kết quả đạt được:
Trong dịp Tết Kỷ Hợi 2019, các bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc thực hiện theo sự chỉ đạo của Chính phủ; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhiều tổ chức, cá nhân cùng chung tay chăm lo, phục vụ Nhân dân đón Tết trong không khí đầm ấm, vui tươi, lành mạnh, an toàn. Không khí mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước, niềm tự hào dân tộc lan tỏa khắp mọi miền Tổ quốc và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Đặc biệt, Việt Nam đã tổ chức chu đáo, trọng thị, bảo đảm an toàn tuyệt đối Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên - Hoa Kỳ lần thứ hai tại Hà Nội, đón Chủ tịch Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên Kim Châng Ưn thăm hữu nghị chính thức và các hoạt động song phương của Tổng thống Hoa Kỳ Đô-nan Trăm tại Việt Nam; tạo ấn tượng mạnh mẽ, thể hiện vai trò nước chủ nhà có trách nhiệm và đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế; khẳng định vị thế mới của Việt Nam trong việc tổ chức các sự kiện đẳng cấp thế giới; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước tươi đẹp, an toàn; con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thân thiện và mến khách.
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 và 02 tháng đầu năm 2019 tiếp tục xu thế tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; thị trường chứng khoán phục hồi. Xuất khẩu ước đạt 36,68 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng hơn 2,5 lần so với cùng kỳ; giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 9,8% so với cùng kỳ, là mức tăng cao nhất cả về giá trị và tốc độ so với cùng kỳ trong 3 năm gần đây. Sản xuất nông nghiệp và công nghiệp ổn định. Thu ngân sách đạt khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,2%. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng 10,12%; riêng trong tháng 2, tăng 10,9%. Các chính sách với người có công, chính sách an sinh xã hội được quan tâm thực hiện tốt. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền diễn ra sôi nổi; hoạt động lễ hội được tổ chức tốt, an toàn, văn minh. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế -  xã hội còn một số tồn tại, hạn chế; xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực giảm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng chậm; giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu; số doanh nghiệp thành lập mới giảm; dịch bệnh trên vật nuôi, cây trồng diễn biến phức tạp, nhất là dịch tả lợn châu Phi (tính đến ngày 13/3/2019 đã có 15 tỉnh, thành phố xuất hiện dịch bệnh); giá lúa đồng bằng sông Cửu Long xuống thấp. Một số hiện tượng gây bức xúc xã hội như: tín dụng đen, đánh nhau, đốt pháo, tội phạm hình sự nghiêm trọng… vẫn còn diễn ra. Tai nạn giao thông tuy giảm nhưng tình trạng vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông diễn ra còn nhiều.
Một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu từng thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tích cực, trách nhiệm, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ và chương trình, kế hoạch hành động của bộ, ngành, địa phương mình với quyết tâm, nỗ lực cao nhất, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra ngay từ quý đầu, tạo đà vững chắc để thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; từng cán bộ, công chức, viên chức cần đề cao trách nhiệm cá nhân, không ngừng đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc; trong đó tập trung thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế trong nước và thế giới, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, điều hành đồng bộ các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, tiếp tục củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng; điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ;…
Thứ hai, từng bộ, ngành, địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo quyết liệt và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi, bệnh tai xanh, bệnh lở mồm long móng...
Thứ tư, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, lan tỏa khát vọng đất nước hùng cường, thịnh vượng, tạo khí thế vui tươi, phấn khởi trong lao động, sản xuất. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng. Kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Thứ năm, các bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Lao động - Thương binh và xã hội, Giao thông vận tải, Tư pháp, Công an, Thanh tra Chính phủ, Ngoại giao, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Văn phòng Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ cụ thể đã được nêu trong Nghị quyết số 16/NQ-CP, ngày  07/3/2019 của Chính phủ.
2. Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân
Ngày 18-02-2019, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 11-QĐi/TW về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân. Trong đó, có một số nội dung chủ yếu sau:
Về nguyên tắc chung (tại Điều 2):
- Người đứng đầu cấp ủy phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân; thực hiện nghiêm việc tiếp dân, đối thoại và xử lý, giải quyết những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Việc tiếp dân, đối thoại và xử lý, giải quyết những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân, phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân; dân chủ, công tâm, khách quan, kịp thời, đúng phạm vi thẩm quyền; trình tự, thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho người dân; bảo mật thông tin, bảo đảm an toàn cho người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo theo quy định.
Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ trong việc tiếp dân, đối thoại, xử lý, giải quyết phản ánh kiến nghị khiếu nại, tố cáo của dân (tại Điều 3):
- Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, yêu cầu của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy cấp trên trong công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân.
- Trực tiếp thực hiện việc tiếp dân, kịp thời đối thoại với dân khi cần thiết và xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân theo thẩm quyền.
- Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc người đứng đầu cấp ủy tổ chức, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền chấp hành quy định về công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân.
- Ban hành và tổ chức thực hiện nội quy, quy chế tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phân công một cơ quan, đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm tiếp nhận, xử lý thông tin, báo cáo và theo dõi, tổng hợp, tham mưu cho người đứng đầu cấp uỷ lãnh đạo chỉ đạo công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý, giải quyết kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của dân trên địa bàn; bố trí địa điểm, điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết, thuận lợi cho người dân đến phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
- Chỉ đạo, hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo đảm trật tự, an toàn cho việc tiếp dân; bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
- Thông báo thời gian, địa điểm tiếp dân trên trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức (nếu có) và trụ sở làm việc của người đứng đầu cấp ủy hoặc địa điểm tiếp dân.
- Định kỳ quý I, 6 tháng, 9 tháng, năm hoặc đột xuất trực tiếp làm việc với bí thư cấp ủy cấp dưới trực tiếp và thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cùng cấp có liên quan về tình hình, kết quả công tác tiếp dân, xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân.
- Định kỳ hằng tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng, năm hoặc đột xuất báo cáo tình hình, kết quả tiếp dân và xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân như sau: (i) Bí thư cấp ủy cấp tỉnh báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Nội chính Trung ương, Ban Dân vận Trung ương; (ii) Bí thư cấp ủy cấp huyện báo cáo với bí thư cấp ủy cấp tỉnh, ban nội chính, ban dân vận cấp ủy cấp tỉnh; (iii) Bí thư cấp ủy cấp xã báo cáo với bí thư và ban dân vận cấp ủy cấp huyện.
Về thời gian tiếp dân (tại Điều 4):
- Người đứng đầu cấp ủy tiếp dân định kỳ như sau: (i) Người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện tiếp dân ít nhất 1 ngày trong 1 tháng. (ii) Người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân ít nhất 2 ngày trong 1 tháng.
- Người đứng đầu cấp ủy tiếp dân đột xuất trong các trường hợp sau: (i) Vụ việc nổi cộm, phức tạp, kéo dài, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến các cơ quan, tổ chức đơn vị còn khác nhau. (ii) Vụ việc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Về thời hạn xử lý, giải quyết phản ánh, kiến nghị khiếu nại, tố cáo (tại Điều 6):
- Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi tiếp nhận phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo người đứng đầu cấp ủy thông báo bằng văn bản đến người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về việc tiếp nhận để giải quyết hoặc đã chuyển, chỉ đạo cơ quan, người có thẩm quyền xử lý, giải quyết (nêu rõ cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền giải quyết để người dân biết). Nếu phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo phức tạp, thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương cần có thêm thời gian xem xét xử lý thì thời hạn có thể kéo dài, nhưng không quá 15 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ khi nhận được phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo do người đứng đầu cấp ủy chuyển, chỉ đạo giải quyết, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền giải quyết có văn bản báo cáo người đứng đầu cấp uỷ và thông báo bằng văn bản cho người phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết về kết quả tiếp nhận để giải quyết và chỉ đạo giải quyết.
Tổ chức thực hiện (tại Điều 9):
- Cấp ủy các cấp, người đứng đầu cấp ủy các cấp có trách nhiệm thực hiện Quy định này.
- Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tham mưu, giúp Bộ Chính tri, Ban Bí thư hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện Quy định; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
3. Công tác tuyển quân năm 2019 đảm bảo công khai, công bằng, dân chủ và đúng luật 
Để nâng cao chất lượng công tác tuyển quân năm 2019, các địa phương, đơn vị đã quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015, các quy định hiện hành và Hướng dẫn số 13290/BQP-TM ngày 27/11/2018 của Bộ Quốc phòng về việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2019. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lực lượng thanh niên về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong các ngày 20, 21, 22/02/2019, tất cả các địa phương trong cả nước sôi nổi tổ chức Lễ giao nhận quân với nghi thức trang trọng, chu đáo, an toàn, tiết kiệm, là ngày hội của tuổi trẻ lên đường nhập ngũ, làm nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc. Nhiều địa phương làm tốt công tác quản lý nguồn và động viên thanh niên lên đường nhập ngũ với nhiều hình thức phong phú, ý nghĩa, mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác tuyển quân được các địa phương triển khai thực hiện đảm bảo công khai, công bằng, dân chủ và đúng luật đã tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân, tránh được dư luận không tốt. Theo thống kê cho thấy, chất lượng thanh niên trúng tuyển nghĩa vụ quân sự (NVQS) năm 2019 đạt chất lượng cao. Tỷ lệ thanh niên tốt nghiệp từ bậc trung học chuyên nghiệp trở lên cao hơn năm 2018. Toàn quốc không có “xã trắng” về tuyển quân. Số thanh niên tình nguyện nhập ngũ ngày càng tăng.
Để công tác tuyển quân và huấn luyện tân binh đi vào nền nếp, chính quy và hiệu quả hơn, Bộ Quốc phòng yêu cầu tân binh cần tự giác chấp hành tốt Luật NVQS, điều lệnh, điều lệ của quân đội, quyết tâm phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; các đơn vị làm nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện chiến sĩ mới cần chuẩn bị tốt cơ sở vật chất và tạo mọi điều kiện để chiến sĩ mới nhanh chóng làm quen, hòa nhập với môi trường quân ngũ mới; các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng tham mưu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm cho công tác tuyển quân ngày càng chặt chẽ, dân chủ, công bằng hơn.
Trong thời gian diễn ra tuyển quân, một số kẻ đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận với danh nghĩa là “phản biện”, tán phát thông tin trên internet và một số trang mạng xã hội với luận điệu xuyên tạc như: “chính sách nghĩa vụ quân sự thực chất là chạy đua vũ trang”; “thời bình sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “sao không tập trung vào phát triển kinh tế, chống tham nhũng?”... Mục đích của họ là phá hoại mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, đặc biệt là mối quan hệ cá - nước giữa nhân dân với Quân đội. Những “phản biện” nói trên là do một số người còn thiếu hiểu biết hoặc cố tình xuyên tạc về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và cụ thể là Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 và công tác tuyển quân năm 2019... Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác”...
4. Tăng cường triển khai các giải pháp cấp bách ngăn chặn bệnh Dịch tả lợn châu Phi đang xâm nhiễm và lây lan nhanh ở nước ta  
Bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút gây bệnh ở lợn nuôi và lợn rừng (không gây bệnh cho các loài động vật khác), lợn bệnh có khả năng chết lên đến 100%; bệnh lây lan nhanh, gây thiệt hại lớn; bệnh lây lan trực tiếp từ lợn bệnh sang lợn chưa mắc bệnh, sản phẩm lợn mang mầm bệnh, hoặc gián tiếp qua các loài vật chủ trung gian mang mầm bệnh (ve mòng, côn trùng, gặm nhấm, chim di cư,…), các phương tiện vận chuyển, thức ăn chăn nuôi, dụng cụ chăn nuôi và cả yếu tố con người. Hiện nay, trên thế giới chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị bệnh. Theo thông tin từ Tổ chức Thú y thế giới (OIE), đến nay đã có 20 quốc gia xuất hiện bệnh dịch tả lợn châu Phi và đã có hơn 1,08 triệu con lợn buộc phải tiêu hủy. Tại Việt Nam, tính đến ngày 14/3/2019, bệnh dịch tả lợn châu Phi đã xuất hiện ở 17 tỉnh, thành phố và đang có nguy cơ lây lan nhanh sang các địa phương khác; tổng số lợn bị mắc bệnh và tiêu hủy là trên 23.442 con, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.
Trước diễn biến phức tạp của dịch tả lợn châu Phi, ngày 20/2/2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ban hành Chỉ thị số 04/CT-TTg về việc triển khai đồng bộ các giải pháp cấp bách khống chế bệnh dịch này. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp cấp bách để khống chế bệnh dịch tả lợn châu Phi theo quy định của Luật Thú y, Công điện số 1194/CĐ-TTg ngày 12/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ; trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
(1) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: (a) Trực tiếp chỉ đạo tập trung các nguồn lực của địa phương để tổ chức xử lý dứt điểm các ổ dịch, không để phát sinh ổ dịch mới;…(b) Thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh động vật, đoàn công tác các cấp và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên để tổ chức phòng, chống dịch bệnh; tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh tại tuyến cơ sở; (c) Chỉ đạo chính quyền, cơ quan chuyên môn các cấp chủ động tổ chức giám sát, lấy mẫu xét nghiệm tại phòng thí nghiệm có thẩm quyền để xét nghiệm, xác định chính xác tác nhân gây bệnh; báo cáo kịp thời, đầy đủ thông tin, số liệu dịch bệnh động vật; duy trì và kiện toàn hệ thống thú y các cấp theo đúng quy định của Luật thú y để bảo đảm các yêu cầu tổ chức triển khai có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật; (d) Tổ chức giám sát chặt chẽ tại cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới đối với người và phương tiện vận chuyển xuất phát từ các nước có bệnh dịch tả lợn châu Phi nhập cảnh vào Việt Nam;…(đ) Tổ chức giám sát chặt chẽ nơi buôn bán, giết mổ, trung chuyển lợn; thực hiện vệ sinh, khử trùng tiêu độc sau mỗi buổi họp chợ, mỗi ca giết mổ lợn; xây dựng phương án đóng cửa chợ, cơ sở giết mổ, nơi buôn bán lợn, các sản phẩm của lợn và có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện bệnh dịch tả lợn châu Phi; (e) Chỉ đạo chính quyền các cấp tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó khẩn cấp với bệnh dịch tả lợn châu Phi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành và hướng dẫn triển khai; xây dựng giải pháp xử lý triệt để lợn bệnh, sản phẩm lợn bệnh, nghi mắc bệnh nhằm tránh lây lan dịch bệnh; (g) Tổ chức thông tin, tuyên truyền liên tục để người chăn nuôi và cộng đồng hiểu rõ mức độ nguy hiểm của bệnh dịch tả lợn châu Phi, các biện pháp xử lý, mức và thời gian hỗ trợ của nhà nước đối với động vật nghi mắc bệnh, đã mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy để ngăn chặn dịch bệnh lây lan; (h) Duy trì, củng cố hệ thống thú y các cấp theo đúng quy định của Luật Thú y.
(2) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành (Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Ban chỉ đạo 389 quốc gia) và các địa phương trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ cụ thể được nêu trong Chỉ thị số 04/CT-TTg, ngày 20/2/2019 của Thủ tướng Chính phủ. 
(3) Đề nghị Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc các địa phương chủ động, tham gia cùng chính quyền các cấp, các bộ, ngành liên quan trong công tác phòng, chống dịch bệnh dịch tả lợn châu Phi.
(4) Về công tác thông tin truyền thông, yêu cầu các cơ quan thông tin đại chúng thông tin kịp thời, chính xác cho người dân về diễn biến tình hình bệnh dịch tả lợn châu Phi và các biện pháp phòng chống dịch theo nguyên tắc vừa bảo đảm yêu cầu phòng, chống dịch bệnh, vừa bảo vệ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thịt lợn, tránh gây hoang mang trong xã hội.
C. VĂN BẢN MỚI
I. VĂN BẢN CỦA TỈNH
1. Ngày 01/3/2019, UBND tỉnh ban hành văn bản số 447/UBND-NNTN yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố triển khai đồng bộ các giải pháp cấp bách khống chế dịch tả lợn Châu Phi.
Theo đó, yêu cầu các Sở, ngành, đơn vị thuộc tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chủ động rà soát, tập trung các nguồn lực để tổ chức xử lý dứt điểm các ổ dịch nếu có xảy ra trên địa bàn tỉnh, không để phát sinh ổ dịch mới; tổ chức xử lý tiêu hủy động vật mắc bệnh, nghi mắc bệnh, chết; tổng vệ sinh, phun thuốc khử trùng, tiêu độc (bằng vôi bột, hóa chất,...); kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm theo quy định các trường hợp buôn bán, vận chuyển động vật, sản phẩm động vật làm lây lan dịch bệnh.
Tổ chức giám sát chặt chẽ tại cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới đối với người và phương tiện vận chuyển xuất phát từ các nước có bệnh Dịch tả lợn Châu Phi nhập cảnh vào tỉnh Kon Tum; tuyên truyền để người dân không tham gia vào hoạt động buôn bán, vận chuyển lậu lợn, sản phẩm lợn qua biên giới; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm; lấy mẫu xét nghiệm và tiêu hủy lợn, sản phẩm lợn nhập lậu; tổ chức thực hiện nghiêm túc việc kiểm dịch tại gốc và kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển, buôn bán lợn, sản phẩm lợn trên địa bàn theo quy định.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền liên tục để người chăn nuôi và cộng đồng hiểu rõ mức độ nguy hiểm của bệnh Dịch tả lợn Châu Phi, các biện pháp xử lý, mức và thời gian hỗ trợ của nhà nước đối với động vật nghi mắc bệnh, đã mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy để ngăn chặn dịch bệnh lây lan.
Theo dõi, tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó khẩn cấp với bệnh dịch tả lợn Châu Phi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành và hướng dẫn triển khai; xây dựng giải pháp xử lý triệt để lợn bệnh, sản phẩm lợn bệnh, nghi mắc bệnh nhằm tránh lây lan dịch bệnh.
Báo cáo kịp thời, đầy đủ thông tin, số liệu dịch bệnh động vật gửi về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để có giải pháp quản lý, ngăn chặn bệnh Dịch tả lợn xâm nhiễm vào tỉnh Kon Tum.
2. Ngày 06/3/2019, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 483/KH-UBND về triển khai công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh năm 2019.
Theo đó, các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung triển khai các nhiệm vụ, như: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp trong quản lý Nhà nước đối với công tác THPL về xử lý VPHC; rà soát, theo dõi THPL các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời phát hiện các quy định không khả thi, không phù hợp với thực tiễn hoặc chồng chéo, mâu thuẫn để kiến nghị cấp có thẩm xử lý theo quy định.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành cho đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ xử lý VPHC;  rổ chức lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, pháp luật về xử lý VPHC cho người có thẩm quyền, cơ quan thực hiện nhiệm vụ THPL về xử lý VPHC. Đồng thời, quan tâm thực hiện công tác thống kê, xây dựng Cơ sở dữ liệu về xử lý VPHC theo quy định.
Theo Kế hoạch, trong năm 2019, Chủ tịch UBND tỉnh thành lập Đoàn Kiểm tra liên ngành thực hiện kiểm tra công tác THPL về xử lý VPHC trong lĩnh vực tài nguyên và môi trương tại một số cơ quan liên quan và UBND cấp huyện. Đối với công tác kiểm tra đột xuất, giao Sở Tư pháp báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh thành lập Đoàn Kiểm tra liên ngành, tổ chức thực hiện kiểm tra khi có phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức, báo chí về việc áp dụng pháp luật về xử lý VPHC chưa chính xác, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan...
Việc ban hành kế hoạch nhằm đảm bảo triển khai thống nhất, đồng bộ việc THPL về xử lý VPHC; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo trật tự an toàn xã hội và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập trong việc thực thi các quy định pháp luật về xử lý VPHC trên địa bàn tỉnh; tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả hoặc kiến nghị các biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý VPHC trên địa bàn tỉnh.
3. Ngày 06/3/2019, UBND tỉnh ban hành Công văn số 479/UBND-NCXDPL về việc tăng cường bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải nêu cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ người tố cáo thuộc phạm vi mình phụ trách; sâu sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn lệch lạc trong quá trình thực hiện của cấp dưới; chịu trách nhiệm trước cấp trên và bị xử lý theo quy định nếu buông lỏng lãnh đạo, quản lý, không làm hết thẩm quyền để xảy ra tình trạng người dân, cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi phụ trách bị trả thù, trù dập khi tố cáo, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với công tác bảo vệ người tố cáo để kịp thời phát hiện các cơ quan chức năng, tổ chức, cá nhân không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao trong việc bảo vệ người tố cáo, người phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin về những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan, tổ chức...; phát hiện, làm rõ, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có hành vi trả thù, trù dập người tố cáo và công khai kết quả xử lý. Thanh tra tỉnh chủ động hướng dẫn thanh tra cấp huyện, thanh tra sở, ban, ngành thực hiện.
Củng cố, kiện toàn, đề cao trách nhiệm, đạo đức công vụ, ý thức kỷ luật của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, các cơ quan, đơn vị có chức năng bảo vệ người tố cáo; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan này thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Tăng cường công tác phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra các hành vi trả thù, trù dập người tố cáo. Đẩy mạnh phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi trả thù, trù dập người tố cáo, bao che người bị tố cáo; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo nhưng không làm tròn trách nhiệm; người lợi dụng quyền phản ánh, tố giác, tố cáo để bôi nhọ, vu khống, thông tin sai sự thật, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của các tổ chức, cá nhân liên quan, gây mất đoàn kết nội bộ. Động viên, khen thưởng kịp thời người tố cáo đúng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức làm tốt công tác bảo vệ người tố cáo. Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng nhằm nâng cao hiệu quả và khắc phục những yếu kém trong công tác bảo vệ người tố cáo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật có liên quan để nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành và người dân trong công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, bảo vệ có hiệu quả người tố cáo. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc bảo vệ người tố cáo, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của toàn xã hội đối với công tác này. Các cơ quan thông tin, truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tích cực phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện bao che các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; những hành vi trả thù, trù dập người tố cáo; ủng hộ bảo vệ người tố cáo; phê phán những hành vi vu khống, tố cáo sai sự thật.
4. Ngày 12/3/2019, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 532/KH- UBND về triển khai thực hiện Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân" trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2019-2025".
Kế hoạch nhằm đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh; tiếp tục triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, các trình độ đào tạo, nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu học tập và làm việc; tăng cường năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập; góp phần tạo nền tảng phổ cập ngoại ngữ cho giáo dục phổ thông vào năm 2025.
Theo Kế hoạch, giai đoạn 2019-2020 sẽ tập trung 3 nhiệm vụ chính là:(1) Mở rộng qui mô dạy tiếng Anh hệ 10 năm ở các cấp học tại các trường phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh. Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ ở các trường phổ thông; trình độ ngôn ngữ và năng lực thực hành các kỹ năng giao tiếp cơ bản của người học (theo Khung năng lực 6 bậc dùng cho Việt Nam) đáp ứng mục tiêu dạy học ngoại ngữ theo chương trình tiếng Anh hệ 10 năm; (2) Phối hợp với các cơ sở đào tạo có uy tín mở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực tiếng Anh cho giáo viên, giảng viên tiếng Anh chưa đạt chuẩn của tỉnh; năng lực tiếng Anh cho giáo viên dạy môn Toán và một số môn khoa học tự nhiên ở trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành; (3) Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ngoại ngữ đáp ứng đổi mới việc dạy học tiếng Anh theo chương trình hệ 10 năm.
Giai đoạn 2021-2025 sẽ tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp để thực hiện 7 nhiệm vụ sau: (1) Triển khai chương trình, tài liệu dạy và học ngoại ngữ; (2) Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá trong dạy học ngoại ngữ; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng; (4) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường điều kiện dạy và học ngoại ngữ; (5) Đẩy mạnh công tác truyền thông, hợp tác quốc tế, xây dựng môi trường dạy và học ngoại ngữ; (6) Đẩy mạnh xã hội hóa trong dạy và học ngoại ngữ; (7) Nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Kế hoạch.
UBND tỉnh giao Sở Giáo dục và Đào tạo làm cơ quan đầu mối, phối hợp với các sở, ngành có liên quan và các địa phương tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch. Tổ chức giám sát, kiểm tra, đánh giá, tổng hợp kết quả thực hiện Kế hoạch; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Kế hoạch trong phạm vi toàn tỉnh và báo cáo theo quy định.
5. Ngày 21/3/2019, UBND tỉnh ban hành Công điện khẩn số 02/CĐ-UBND yêu cầu UBND các huyện, thành phố, Ban Chỉ đạo công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng các cấp, các đơn vị chủ rừng, lực lượng Kiểm lâm tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị số 09/CT-UBND ngày 11/12/2018 của UBND tỉnh về việc tăng cường các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng và quản lý, bảo vệ rừng mùa khô 2018-2019 trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời tập trung triển khai một số nhiệm vụ cấp bách sau: (1). Phân công lực lượng trực PCCCR 24/24 giờ, bố trí lực lượng canh phòng ở những khu vực trọng điểm, xung yếu có nguy cơ cháy cao để kịp thời phát hiện và xử lý ngay từ thời điểm ban đầu; chuẩn bị sẵn sàng, huy động các lực lượng tại chỗ xử lý khi có cháy rừng, không để xảy ra cháy lớn, hạn chế thấp nhất thiệt hại do cháy gây ra. (2). Kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất nương rẫy tại các khu vực gần rừng, nghiêm cấm sử dụng lửa để xử lý thực bì, đốt nương rẫy và những hành vi dùng lửa khác ở khu vực ven rừng, trong rừng, chú ý việc sử dụng lửa của khách du lịch tại các khu du lịch sinh thái trong những ngày nghỉ, ngày lễ. (3). Yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thành phố tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc triển khai phương án PCCCR của các đơn vị chủ rừng, chủ vườn cây cao su trên địa bàn; đồng thời yêu cầu các đơn vị khẩn trương có phương án giảm thiểu tối đa các vật liệu dễ gây cháy; đặc biệt là đối với các vườn cây cao su trên địa bàn huyện Ia H’Drai và Kon Rẫy. Chủ tịch UBND các huyện, thành phố chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh nếu cháy lớn xảy ra. (4). Chuẩn bị sẵn sàng về nhân lực, phương tiện, dụng cụ để huy động tham gia chữa cháy kịp thời, hạn chế thấp nhất thiệt hại do cháy gây ra. Sau các vụ cháy phải kịp thời kiểm tra, xác minh tìm nguyên nhân và đối tượng gây ra cháy, lập hồ sơ xử lý nghiêm và báo cáo theo quy định (5). Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong cộng đồng dân cư về công tác bảo vệ rừng và PCCCR; lực lượng Kiểm lâm phải bám sát, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở, với dân trong công tác PCCCR. (6). Thực hiện tốt việc phối hợp theo quy định tại Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28/12/2015 của Chính phủ và các quy định hiện hành có liên quan để thực hiện công tác PCCCR trên địa bàn tỉnh. (7). Thường xuyên theo dõi thông tin dự báo thời tiết và cảnh báo cháy rừng trên hệ thống thông tin cảnh báo cháy sớm của Cục Kiểm lâm tại địa chỉ Website: kiemlam.org.vn để kịp thời chuẩn bị và triển khai công tác kiểm tra, phát hiện sớm điểm cháy. (8).  Ban Chỉ đạo công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện thực hiện đúng chế độ báo cáo hàng ngày vào lúc 16 giờ 00 về Bộ phận giúp việc của Ban Chỉ đạo công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tỉnh - Chi cục Kiểm lâm theo số điện thoại: 02603.863887 để nắm bắt thông tin và chỉ đạo kịp thời. (9). Đề nghị Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Sư đoàn 10 bố trí lực lượng, phương tiện để hỗ trợ chữa cháy rừng trong trường hợp có cháy lớn xảy ra.
II. VĂN BẢN CỦA TRUNG ƯƠNG
Thông tư 35/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26/12/2018 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, quy định mức điều chỉnh tiền lương và thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội (BHXH). Thông tư gồm có 04 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2019; các quy định tại Thông tư này áp dụng kể từ ngày 01/01/2019. Một số quy định chủ yếu của Thông tư:
- Đối tượng áp dụng: (1) Đối tượng điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH bao gồm: a) Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/01/2016 trở đi, hưởng BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần trong thời gian từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/12/2019; b) Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần trong thời gian từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/12/2019; (2) Đối tượng điều chỉnh thu nhập tháng đã đóng BHXH là người tham gia BHXH tự nguyện hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần trong thời gian từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/12/2019.
- Điều chỉnh tiền lương tháng đã đóng BHXH
(1) Tiền lương tháng đã đóng BHXH đối với đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư này được điều chỉnh theo công thức sau:
Tiền lương tháng đóng BHXH sau điều chỉnh của từng năm = Tổng tiền lương tháng đóng BHXH của từng năm x Mức điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH của năm tương ứng
(2) Đối với người lao động vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng BHXH đối với người lao động bắt đầu tham gia BHXH theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định từ ngày 01/01/2016 trở đi và tiền lương tháng đã đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định được điều chỉnh theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
- Điều chỉnh thu nhập tháng đã đóng BHXH: (1) Thu nhập tháng đã đóng BHXH đối với đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư này được điều chỉnh theo công thức sau:
Thu nhập tháng đóng BHXH tự nguyện sau điều chỉnh của từng năm = Tổng thu nhập tháng đóng BHXH của từng năm x Mức điều chỉnh thu nhập tháng đã đóng BHXH của năm tương ứng
(2) Đối với người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện thì thu nhập tháng đã đóng BHXH tự nguyện được điều chỉnh theo quy định tại Khoản 1 Điều này, tiền lương tháng đã đóng BHXH bắt buộc được điều chỉnh theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư này. Mức bình quân tiền lương và thu nhập tháng đã đóng BHXH làm căn cứ tính hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần và trợ cấp tuất một lần được tính theo quy định tại Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP và Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 134/2015/NĐ-CP.
 
_________
 
Nguyễn Phi Em thực hiện
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây