Trong 10 năm qua (2010-2020), Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành
12 nghị quyết,
44 chỉ thị và
152 kết luận
(không bao gồm các kết luận về công tác cán bộ) để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh. Việc xây dựng và ban hành các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy (viết tắt NQ, CT) được thực hiện đúng quy trình, quy định
[1].
Các NQ, CT do Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành trong thời gian qua đều xuất phát từ yêu cầu thực tiễn; trong đó, nhiều chủ trương mang tính đột phá, sáng tạo, giải quyết kịp thời, hiệu quả những khó khăn, vướng mắc, tạo động lực để phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh
[2].
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy đã chú trọng lãnh đạo việc tổ chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt các NQ, CT của Trung ương, của tỉnh; đồng thời, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để triển khai thực hiện, đảm bảo phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, đơn vị nhằm đưa các NQ, CT của Trung ương và của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các NQ, CT của Trung ương, của tỉnh được các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện thường xuyên, qua đó kịp thời phát hiện, chỉ đạo phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm và giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Cùng với việc ban hành các NQ, CT; trong 10 năm qua, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức sơ kết, tổng kết
69 nghị quyết,
74 chỉ thị,
22 kết luận của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
[3]; việc sơ kết, tổng kết được tiến hành từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh. Các báo cáo sơ kết, tổng kết được xây dựng đúng quy trình, quy định; tổng hợp, đánh giá đầy đủ kết quả thực hiện của các cấp ủy trực thuộc, các cơ quan, đơn vị có liên quan. Đã áp dụng hình thức trực tuyến trong tổ chức một số hội nghị sơ kết, tổng kết
[4], góp phần mở rộng thành phần tham dự, tiết kiệm chi phí.
Nhìn chung, việc sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của tỉnh đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Đã đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân, từ đó xác định nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả triển khai thực hiện; đồng thời, đề xuất, kiến nghị Trung ương chỉ đạo giải quyết một số vấn đề vượt thẩm quyền của tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc ban hành, sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của Tỉnh uỷ còn gặp phải những hạn chế, khó khăn, vướng mắc: Công tác tổ chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt một số NQ, CT của Trung ương và của tỉnh có lúc còn chậm, chất lượng có lúc, có nơi chưa đáp ứng yêu cầu; hình thức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt chậm được đổi mới. Việc cụ thể hóa một số NQ, CT của Trung ương và của tỉnh còn chậm, chất lượng, hiệu quả chưa cao, chưa sát với chức năng, nhiệm vụ được giao và tình hình thực tế; chưa chú trọng lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá được đề ra tại các NQ, CT. Công tác triển khai sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của tỉnh có lúc, có nơi còn hình thức; chưa đánh giá sát tình hình, kết quả thực hiện; chưa chỉ ra được những nguyên nhân chủ quan đối với mặt hạn chế, yếu kém để phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo.
Từ thực tế 10 năm qua, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã rút ra một số kinh nghiệm, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc ban hành, sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của Tỉnh; nhất là những vấn đề thực tiễn đặt ra: (1)
Trích yếu, nội dung các nghị quyết, chỉ thị, kết luận phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Đồng thời, nên rà soát để ban hành một số nghị quyết lãnh đạo có tính toàn diện, thực hiện lâu dài; tránh tình trạng cùng một nội dung, một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận. (2) Về sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng: Nên thực hiện sơ kết giữa nhiệm kỳ (
sau khi thực hiện 03 năm) và tổng kết cuối nhiệm kỳ (
sau khi thực hiện 05 năm); trước sơ kết thì tiến hành giám sát; trước tổng kết thì tổ chức kiểm tra. Nghị quyết, chỉ thị nào có thời hiệu 10 năm trở lên thì nên quy định rõ trong phần tổ chức thực hiện (
số lần kiểm tra, giám sát; thời gian sơ kết lần 1, sơ kết lần 2 và thời gian tổng kết). (3) Cần có quy định cụ thể để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận, nhất là kiểm tra, giám sát thường xuyên, trong đó có việc đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát thường xuyên theo hướng tích hợp, lồng ghép nội dung nhiều nghị quyết, chỉ thị trong một đợt, một đoàn kiểm tra, giám sát.
Thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới công tác sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của địa phương, Tỉnh ủy xác định một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, với nhóm giải pháp đổi mới việc ban hành các NQ, CT của Trung ương và của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy: (1) Tiếp tục nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo ban hành các NQ, CT. (2) Trên cơ sở nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, các cấp ủy Đảng lựa chọn những lĩnh vực trọng tâm, đột phá để đề ra nhiệm vụ xây dựng, ban hành NQ, CT trong chương trình công tác; đảm bảo sau khi có NQ, CT thì lĩnh vực đó phải có sự chuyển biến thực sự, tạo xung lực cho cáclĩnh vực khác. (3) Việc ban hành NQ, CT phải đảm bảo ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, đảm bảo tính khả thi cao; cấp dưới không ban hành nghị quyết, chỉ thị trùng lặp với nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Tập trung ban hành các nghị quyết của cấp ủy vào hai năm đầu của nhiệm kỳ, để nửa nhiệm kỳ sau tổ chức kiểm tra, đánh giá và đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện. (4) Việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động của cấp ủy thực hiện NQ, CT của cấp trên phải đảm bảo cụ thể, rõ ràng, có lộ trình, thời gian thực hiện, bảo đảm điều kiện thực hiện (
nhân lực, tài lực, thời gian…), phân công rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để tập trung lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế ở địa phương, cơ quan, đơn vị. (5) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục hạn chế để triển khai thực hiện có hiệu quả các NQ, CT.
Thứ hai, với nhóm giải pháp đổi mới việc sơ kết, tổng kết các NQ, CT của Trung ương và của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy: (1) Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới việc tổ chức sơ kết, tổng kết NQ, CT đảm bảo thiết thực, hiệu quả; có quy trình, quy định cụ thể về việc sơ kết, tổng kết NQ, CT, như: Cấp thực hiện; thời gian sơ kết, tổng kết; chế độ kiểm tra, giám sát...(2) Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến nội dung NQ, CT và các nhiệm vụ được cấp ủy giao triển khai thực hiện trong chương trình hành động thực hiện NQ, CT khi yêu cầu các địa phương, đơn vị sơ kết, tổng kết
(tránh khi hướng dẫn sơ kết, tổng kết thì yêu cầu tất cả các địa phương, đơn vị trong hệ thống đều phải tiến hành sơ kết, tổng kết mang tính hình thức). (3) Việc tổ chức sơ kết, tổng kết các NQ, CT phải đảm bảo tuân thủ quy trình, quy định; có cơ chế cử cán bộ cấp trên phụ trách lĩnh vực tham dự để chỉ đạo, định hướng và nắm bắt thực tiễn trong quá trình sơ kết, tổng kết. (4) Việc xây dựng báo cáo sơ kết, tổng kết cần tiếp tục đổi mới theo hướng tăng cường các thông tin định lượng (
thông qua các bảng biểu, phụ lục nhằm cung cấp thông tin, số liệu). Nội dung báo cáo tập trung đánh giá một cách khái quát, ngắn gọn, tập trung vào những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai thực hiện, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. (5) Sau hội nghị sơ kết, tổng kết, việc văn bản hóa nội dung chỉ đạo tiếp theo của cấp ủy cần được thực hiện kịp thời.