A. NỘI DUNG TRỌNG TÂM SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 01-2019
- Lãnh đạo tuyên truyền việc triển khai thực hiện Chương trình 51-CTr/TU, ngày 09-02-2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV về thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”: việc tổ chức sắp xếp, tinh gọn các phòng, ban của các cơ quan khối Đảng; ý kiến của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trước việc sắp xếp, tinh gọn các phòng, ban, tinh giảm biên chế của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Tuyên truyền kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV; kết quả Kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân tỉnh khoá XI và công tác tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp.
Tuyên truyền Kỷ niệm 40 năm Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng (7/01/1979 - 7/01/2019):
thực hiện theo các nội dung đã được định hướng tại tiểu mục 5.1 mục 5, Hướng dẫn số 48-HD/BTGTU, ngày 13-12-2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Đề cương tuyên truyền đã được đăng tải trên Trang TTĐT Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Tuyên truyền việc triển khai học tập chuyên đề và Kế hoạch thực hiện năm 2019:
“Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của các địa phương, đơn vị trong tỉnh.
Tuyên truyền kết quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của tỉnh năm 2018, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu năm 2019; công tác tổ chức tổng kết, đánh giá công tác năm 2018 của các cấp, các ngành trong tỉnh. Tập trung tuyên truyền đậm nét các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân; hoạt động của cấp ủy, chính quyền các cấp chăm lo đời sống nhân dân, nhất là người nghèo; hoạt động của các cấp, các ngành triển khai các biện pháp đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm; giới thiệu những nét đẹp văn hóa, những phong tục tốt đẹp và phản ánh những hoạt động vui tươi lành mạnh của Nhân dân trong tỉnh đón tết Nguyên Đán Kỷ Hợi 2019.
- Ngoài ra, tiếp tục tuyên truyền việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám của các cấp ủy trong tỉnh; những điểm mới, điểm quan trọng của các nghị quyết, kết luận, quy định của Hội nghị. Tuyên truyền kết quả sau hơn 02 năm thực hiện Chỉ thị 05 -CT/TW của Bộ Chính trị "về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh", tập trung biểu dương, cổ vũ các tấm gương tập thể, cá nhân điển hình trong các lĩnh vực công tác, các phong trào thi đua gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
.
Thông tin, tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các địa phương, đơn vị; về phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản phẩm chủ lực của tỉnh; triển khai nông nghiệp công nghệ cao; bảo tồn và phát triển thương hiệu sản phẩm sâm Ngọc Linh; xây dựng nông thôn mới; công tác phòng, chống dịch bệnh; công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, phát hiện và xử lý các hành vi gian lận thương mại, thực phẩm bẩn, thực phẩm kém an toàn…
B. THÔNG TIN THỜI SỰ
I. THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
Chuyên đề 1:
Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân[1]
Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân là nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới; đồng thời là giải pháp quan trọng, cấp bách trong xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay.
1. Về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân được thể hiện là phải có thái độ đánh giá cao vai trò, vị trí của nhân dân. Thứ hai, đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức tôn trọng nhân dân thể hiện nổi bật ở sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị của Người. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, yêu kính nhân dân, thật sự tôn trọng nhân dân. Thứ ba, phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng nhân dân xuất phát một cách tự nhiên từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Hồ Chí Minh có cách giao tiếp hoàn toàn mới giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân, thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người.
2. Thực hiện có hiệu quả xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
Năm 2019 là năm toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019); 70 năm Bác viết tác phẩm “Dân vận” (1949 - 2019); 50 năm tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969 - 2019).
Thứ nhất, đối với tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:
Trong bối cảnh nêu trên, việc thực hiện có hiệu quả chủ đề xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong năm 2019 và các năm tiếp theo chính là góp phần thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Trong đó, cần chú trọng một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau:
Quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về "dân làm gốc"; chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân tự do sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Nghiêm túc triển khai thực hiện: Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị khóa XI “về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định “về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quy định 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốcViệt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.
Thứ hai, đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, cần chủ động, tích cực trong thực hiện các chương trình, kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ môi trường; phát huy sức dân, huy động nhân dân tham gia thực hiện các mục tiêu đề ra vì lợi ích của nhân dân.
Thực hiện nghiêm Quy định 08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Nghiêm túc thực hiện yêu cầu về tiếp xúc, trao đổi, đối thoại với nhân dân được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là “cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời”.
Thứ ba, đối với cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị:
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái trong đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về "Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ". Tự giác thực hiện nghiêm Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”.
Trong đó, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Ðảng, Nhà nước và của nhân dân.
Chuyên đề 2:
Kỳ họp thứ 7, HĐND tỉnh khóa XI (từ ngày 5 – 7/12) đã biểu quyết thông qua 26 Nghị quyết quan trọng.
Các nghị quyết gồm: (
1). Nghị quyết về giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2018. (
2). Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết số 36/2011/NQ-HĐND ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh về “Quy hoạch phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân tỉnh Kon Tum giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2025”. (
3). Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2019. (
4). Nghị quyết thông qua giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi thuộc phạm vi thẩm quyền quản lý của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2018 – 2020. (
5). Nghị quyết quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
6). Nghị quyết Quy định nội dung, mức chi hoạt động của Hội đồng tư vấn thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, Ban Tư vấn thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
7). Nghị quyết quy định mức chi và việc sử dụng kinh phí để thực hiện chế độ dinh dưỡng đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao thành tích cao tỉnh Kon Tum. (
8). Nghị quyết Quy định mức chi thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
9). Nghị quyết Quy định tỷ lệ phân chia nguồn thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho các cấp ngân sách trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2017 – 2020. (
10). Nghị quyết Quy định mức phân bổ kinh phí ngân sách Trung ương bổ sung có mục tiêu cho ngân sách tỉnh Kon Tum từ nguồn thu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông giai đoạn 2019-2020 và qui định một số nội dung, mức chi đặc thù phục vụ công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
11). Nghị quyết về việc phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương và phân bổ kết dư ngân sách tỉnh năm 2017. (
12). Nghị quyết về điều chỉnh, bổ sung Điều 1 của Nghị quyết số 69/2016/NQ-HĐND, ngày 09/12/2016 của HĐND tỉnh về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020. (
13). Nghị quyết về kinh phí hoạt động của HĐND tỉnh năm 2019. (
14). Nghị quyết về kế hoạch vay, trả nợ công năm 2019. (
15). Nghị quyết Quy định thẩm quyền xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và phê duyệt phương án xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
16). Nghị quyết phê duyệt Kế hoạch đầu tư nguồn ngân sách nhà nước năm 2019 tỉnh Kon Tum. (
17). Nghị quyết về dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách tỉnh năm 2019. (
18). Nghị quyết thông qua Danh mục các dự án cần thu hồi đất năm 2019 và nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
19). Nghị quyết về thí điểm bố trí Công an chính quy đảm nhiệm chức danh Trưởng Công an xã trên địa bàn tỉnh Kon Tum. (
20). Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết số 04/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của HĐND tỉnh về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. (
21). Nghị quyết về giao biên chế công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2019. (
22). Nghị quyết về phê duyệt tổng số người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập tỉnh Kon Tum năm 2019. (
23). Nghị quyết về chủ trương thành lập thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. (
24). Nghị quyết về Đề án đặt tên, điều chỉnh tên đường, phố (đợt 7) trên địa bàn thành phố Kon Tum. (
25). Nghị quyết bãi bỏ các Nghị quyết và sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong các Nghị quyết do HĐND tỉnh Kon Tum ban hành. (
26). Nghị quyết về kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ trong năm 2019 của HĐND tỉnh.
II. TIN TRONG TỈNH
1. Trong 03 ngày (từ 05 đến 07-12), Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XI đã tiến hành Kỳ họp thứ 7, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh và các đồng chí trong Thường trực HĐND tỉnh.
Tại kỳ họp, HĐND tỉnh đã xem xét, thảo luận các báo cáo, tờ trình của Thường trực HĐND, UBND, các Ban HĐND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh, báo cáo của các cơ quan chức năng.
Đánh giá về tình hình KT-XH năm 2018, HĐND tỉnh khẳng định: Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta gặp không ít khó khăn, thách thức. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp, nỗ lực của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,28%; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vượt dự toán; giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá; xuất khẩu tăng cao; thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển; các hoạt động văn hóa, thể thao diễn ra sôi nổi; lĩnh vực giáo dục, y tế tiếp tục có bước phát triển; công tác giảm nghèo và an sinh xã hội đạt được nhiều kết quả; công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm thực hiện; cải cách thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy được thực hiện mạnh mẽ, kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác đối ngoại được mở rộng.
Kỳ họp cũng đã tiến hành giám sát việc trả lời, giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 6 Hội đồng nhân dân tỉnh; tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, HĐND tỉnh yêu cầu những người được lấy phiếu tín nhiệm tiếp tục phát huy kết quả đạt được, nghiêm túc rút kinh nghiệm, khắc phục hạn chế để hoàn thành tốt nhiệm vụ chức trách nhiệm vụ được giao.
Tại kỳ họp, HĐND tỉnh cũng thực hiện việc miễn nhiệm 01 Phó Chủ tịch UBND tỉnh do chuyển công tác; miễn nhiệm và bầu bổ sung Hội thẩm Tòa án nhân dân tỉnh.
Trên cơ sở thảo luận dân chủ và xem xét toàn diện, kỹ lưỡng, HĐND tỉnh đã thống nhất
ban hành 26 Nghị quyết nhằm kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa các quy định của pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát biểu kết luận Kỳ họp, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Văn Hùng đề nghị lãnh đạo từng cấp, từng ngành, từng địa phương tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, nắm chắc tình hình, tập trung thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp mà HĐND tỉnh vừa thông qua. Trong đó, chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm: (1) Đẩy mạnh triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của HĐND tỉnh về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến; giao rừng, cho thuê rừng để quản lý, sử dụng rừng bền vững kết hợp với kinh doanh du lịch, dịch vụ và sản xuất dưới tán rừng trên địa bàn; đề án đầu tư, phát triển và chế biến dược liệu trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và sản phẩm chủ lực của tỉnh đến năm 2020…Trong đó chú trọng đến việc thực hiện chủ trương dồn đổi, tích tụ đất nông nghiệp để xây dựng “cánh đồng lớn” gắn với thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp công nghệ cao và liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp; quy hoạch, bảo tồn, đầu tư và phát triển các vùng trồng dược liệu tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ, nhất là các sản phẩm từ Sâm Ngọc Linh, Đẳng Sâm và các loại dược liệu khác. (2) Tập trung thực hiện tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh, nhất là dự án tuyến tránh đường Hồ Chí Minh đoạn qua thành phố Kon Tum và dự án đường giao thông kết nối từ đường Hồ Chí Minh đi Quốc lộ 24; các dự án phục vụ thu hút đầu tư, du lịch...(3) Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ tài nguyên, khoáng sản trên địa bàn. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nâng cao kỷ luật, kỷ cương, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp. Trong năm 2019 phải cho ra đời được Trung tâm Hành chính công. (4) Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục vùng sâu, vùng xa; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, chủ động theo dõi, phòng, chống, ngăn chặn sự lây lan các dịch bệnh lây nhiễm; quan tâm công tác an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Tăng cường các biện pháp đấu tranh, trấn áp và xử lý kịp thời có hiệu quả với các loại tội phạm nhất là tội phạm hình sự nguy hiểm; triệt xóa các băng, nhóm tội phạm, các hoạt động bảo kê, cho vay nặng lãi, tín dung đen đảm bản an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, đem lại bình yên và hạnh phúc cho Nhân dân.
2. Chiều 14-12, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc Nghiên cứu, học tập chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019.
Tại tỉnh Kon Tum, ở cấp tỉnh, Hội nghị được kết nối trực tiếp các điểm cầu: Hội trường Ngọc Linh, Hội trường Tỉnh ủy, Hội trường Đảng ủy Quân sự tỉnh và các điểm cầu các huyện, thành phố Kon Tum.
Tại hội nghị, các đại biểu được học tập, quán triệt những nội dung cơ bản của chuyên đề năm 2019 “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; hướng dẫn việc thực hiện Hướng dẫn số 74-HD/BTGTW ngày 20/11/2018 của Ban Tuyên giáo Trung ương về học tập chuyên đề này.
Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 nhằm mục đích tăng cường việc xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tạo động lực to lớn cho công cuộc đổi mới, góp phần đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, củng cố hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay; tiếp tục gắn nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh với việc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động, tổ chức thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương.
Triển khai thực hiện chuyên đề, Ban Tuyên giáo Trung ương đề nghị cấp ủy các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt những nội dung của chuyên đề; cấp ủy phối hợp với lãnh đạo chính quyền, đoàn thể lựa chọn những vấn đề còn hạn chế, tồn tại có liên quan tới 3 nội dung chuyên đề của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để tập trung giải quyết gắn với kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các phong trào thi đua của ngành, địa phương, đơn vị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4, Nghị quyết Trung ương 6, Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII và Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị , Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Cấp ủy đảng các cấp chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, báo cáo kết quả học tập, làm theo với cấp ủy cấp trên trực tiếp.
3. Sáng 17-12, Ủy ban MTTQVN tỉnh tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” (2016-2018); tổng kết 15 năm thực hiện “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” trên địa bàn tỉnh (2003-2018).
Qua 3 năm (2016-2018) thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh đã xây dựng và tổ chức ký kết chương trình với UBND tỉnh chỉ đạo các cấp chính quyền phối hợp với Mặt trận và các tổ chức đoàn thể địa phương triển khai phối hợp, lồng ghép ngày càng tích cực các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các phong trào thi đua, mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Cuộc vận động được triển khai tích cực đã góp phần xây dựng và giữ các tiêu chí đạt được ở 13/102 xã đạt chuẩn nông thôn mới thời gian qua. Riêng năm 2018, có 8 xã đăng ký về đích nông thôn mới; có 2 xã đạt từ 15 đến 18 tiêu chí; 26 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí; 41 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí và 4 xã đạt dưới 5 tiêu chí; số tiêu chí đạt chuẩn bình quân toàn tỉnh là 10,35 tiêu chí/xã.
Bên cạnh đó, qua 15 năm thực hiện “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” nhân dịp kỷ niệm ngày truyền thống MTTQVN 18/11 hằng năm, Ủy ban MTTQVN các cấp luôn được cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm chỉ đạo, phối hợp tổ chức thành công “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” ở 100% khu dân cư.
Thông qua “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc”, các địa phương đã tuyên dương, khen thưởng nhiều tập thể, gia đình, cá nhân tiêu biểu thực hiện tốt các cuộc vận động, phong trào thi đua do các cấp phát động. Đồng thời, tại Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc, nội dung phần hội được các khu dân cư tổ chức đảm bảo thiết thực, có nhiều hoạt động cho nhân dân tham gia như giao lưu TDTT, biểu diễn văn hóa văn nghệ mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc.
Nhân dịp này, Ủy ban MTTQVN tỉnh tặng Bằng khen 26 tập thể, 26 cá nhân có thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” (2016-2018), 15 năm thực hiện “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” trên địa bàn tỉnh (2003-2018).
* Chiều cùng ngày (17-12), Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức Hội nghị Biểu dương khu dân cư và Trưởng ban công tác Mặt trận tiêu biểu giai đoạn 2014 – 2019.
Qua 5 năm triển khai Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, nay là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, đến nay, toàn tỉnh có 260 mô hình khu dân cư điển hình trong các lĩnh vực như phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường…
Nhân dịp này, 38 tập thể và 51 cá nhân có thành tích xuất sắc trong Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” giai đoạn 2014 – 2019 được nhận bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh.
4. Sau 3 ngày tổ chức, tối 16-12, Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum năm 2018 đã bế mạc với chương trình nghệ thuật đặc sắc.
Với chủ đề “Lời hẹn miền thổ cẩm”, chương trình nghệ thuật bế mạc Tuần Văn hóa – Du lịch có thời lượng 90 phút với sự tham gia của gần 700 diễn viên, nghệ nhân đến từ các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Quảng Nam. Điểm nhấn trong đêm bế mạc là phần trình diễn thời trang của các chàng trai, cô gái 7 dân tộc anh em sinh sống lâu đời trên địa bàn tỉnh Kon Tum là Xê Đăng, Ba Na, Giẻ – Triêng, Gia Rai, B’râu, Rơ Măm và H’rê. Bộ sưu tầm trang phục trình diễn được sáng tạo dựa trên cảm hứng từ hoa văn, chất liệu và phong cách đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum. Đây cũng là lần đầu tiên 42 mẫu trang phục độc đáo về bản sắc văn hóa được giới thiệu với công chúng.
Kết thúc chương trình nghệ thuật “Lời hẹn miền thổ cẩm” là phần Giã bạn, với âm vang cồng chiêng rộn rã chào mừng sự thành công của Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 4 cùng những bước xoang nhịp nhàng, rộn rã và quyến luyến trước giờ chia tay.
Diễn ra từ ngày 14-17/12/2018 với nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc như liên hoan tạc tượng, liên hoan ẩm thực, giới thiệu các sản phẩm du lịch địa phương, triển lãm mỹ thuật – nhiếp ảnh, trưng bày không gian văn hóa mùa giữ rẫy và nghề truyền thống, giới thiệu tua du lịch, đặc biệt là lễ hội đường phố, Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 4 đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng bạn bè, du khách và người dân Kon Tum.
Không chỉ để lại ấn tượng đẹp trong các hoạt động văn hóa, lễ hội dân gian, các hoạt động bên lề của Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum năm 2018 đã đạt được nhiều thành công. Tiêu biểu có nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đến với tỉnh Kon Tum trong dịp này. Hoạt động nổi bật nhất đó là được đông đảo các nghệ nhân, diễn viên các tỉnh Tây Nguyên và Quảng Nam, Quảng Ngãi, An Giang tham gia rất tích cực. Qua các hoạt động bên lề, đặc biệt là hoạt động gặp gỡ, trao đổi với 20 doanh nghiệp của Hàn Quốc, các doanh nghiệp bước đầu cũng đã có khảo sát, tìm hiểu và mong muốn được hợp tác đầu tư với tỉnh Kon Tum. Thông qua hoạt động lễ hội, việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung, tỉnh Kon Tum nói riêng cũng đã được phục dựng, được bảo tồn phát huy hơn nữa.
Ghi nhận những đóng góp và thành tích của các đơn vị góp phần tạo nên thành công của Tuần văn hóa – Du lịch, UBND tỉnh đã tặng Bằng khen cho 17 tập thể tiêu biểu trong đêm bế mạc.
Thành công của Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 4 thêm lần nữa khẳng định Kon Tum là một điểm đến hấp dẫn về du lịch và thu hút đầu tư vào thời điểm hiện nay và trong tương lai.
5. Sáng 21-12, nhân kỷ niệm 74 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/2018) và 29 năm ngày Quốc phòng toàn dân (22/12/1989-22/12/2018), Đoàn công tác của Thường trực Tỉnh ủy-HĐND-UBND-UBMTTQVN tỉnh đã thăm và chúc mừng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3)
Tại các nơi đến thăm, đồng chí A Pớt - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh thay mặt lãnh đạo tỉnh chúc mừng cán bộ, chiến sĩ các đơn vị nhân kỷ niệm 74 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Chiều cùng ngày (21-12), UBND tỉnh tổ chức gặp mặt 120 sĩ quan quân đội cao cấp đã nghỉ hưu trên địa bàn tỉnh và tham gia chiến tranh biên giới, bảo vệ Tổ quốc.
* Cùng ngày (21-12), Tỉnh đoàn, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh và Sư đoàn 10 phối hợp tổ chức các hoạt động trong chương trình Ngày hội “Vì biên cương Tổ quốc”; “Tình nguyện mùa đông”,“Xuân tình nguyện năm 2019” tại xã Đăk Nhoong (huyện Đăk Glei).
* Tối cùng ngày (21-12), tại xã Đăk Kan, huyện Ngọc Hồi, đã diễn ra Chương trình giao lưu văn nghệ “Thắm tình quân dân” do 60 diễn viên không chuyên đến từ các đội văn nghệ quần chúng của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Sư đoàn 10, Công ty 732, Công ty 78, Công ty 716, Chi nhánh Vietell Kon Tum, thôn Hào Nưa biểu diễn, đã đem đến cho người xem những cảm xúc tươi đẹp, hoài niệm về một thời tuổi trẻ hào hùng, sẵn sàng cầm súng lên đường đánh giặc theo tiếng gọi của Tổ quốc; tình thương yêu bao la của Bác Hồ dành cho bộ đội ở chiến trường …
III. TIN TRONG NƯỚC
1. Một số nét trọng tâm, cơ bản về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta năm 2018; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019
Một số nét cơ bản về tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2018
Mặc dù còn một số khó khăn, thách thức và hạn chế, mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 của nước ta cơ bản được hoàn thành. Trên cơ sở kết quả 11 tháng, ước cả năm 2018 chúng ta sẽ đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch đề ra, trong đó có 8 chỉ tiêu vượt
*. Với kết quả đạt được của năm bản lề 2018, tình hình đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong 3 năm 2016 - 2018 phát triển đúng hướng, chuyển biến rõ nét hơn giai đoạn trước; quy mô nền kinh tế gấp 1,3 lần, GDP bình quân đầu người tăng 440 USD so với đầu nhiệm kỳ; đời sống của người dân không ngừng được cải thiện. Dự báo chúng ta sẽ đạt được các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019
a) Các chỉ tiêu chủ yếu năm 2019: Về kinh tế, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,6 - 6,8%; Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7 - 8%; Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33 - 34% GDP.
Về xã hội, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1 - 1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60 - 62%,
trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 24 - 24,5%; Số giường bệnh/một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 27 giường; Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%.
Về môi trường, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%; Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%.
b) Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
- Về nhiệm vụ: (1) Kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục theo đuổi chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững gắn với quyết liệt thực hiện các đột phá lớn và đẩy mạnh hơn nữa đổi mới tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường vốn, thị trường bất động sản...(2) Đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, khu vực, ngành sản xuất gắn với chú trọng thị trường đầu ra, phát triển đồng bộ cả thị trường nội địa và nước ngoài, nghiên cứu các giải pháp ứng phó chủ động, giảm tác động tiêu cực của “chiến tranh thương mại Mỹ - Trung” tới nước ta. (3) Quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh giản bộ máy, tổ chức, biên chế gắn với xây dựng Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính, năng động, sáng tạo, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và người dân...
- Một số giải pháp chủ yếu: (1) Tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường năng lực phân tích, dự báo, theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để có đối sách phù hợp, kịp thời, không để bị động, bất ngờ. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp đồng bộ, hiệu quả với chính sách tài khóa và các chính sách khác. (2) Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các đột phá chiến lược. Đẩy mạnh việc triển khai các nghị quyết của Trung ương liên quan đến vấn đề này. Tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách tạo đột phá mạnh mẽ hơn nữa, thí điểm các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả, nhất là những ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển mạnh các thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học công nghệ; có cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. (3) Tạo chuyển biến rõ nét trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế, cơ cấu lại DNNN và phát triển kinh tế tư nhân. (4) Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. (5) Chấn chỉnh công tác quản lý tài nguyên, môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. (6) Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính; siết chặt kỷ luật kỷ cương; tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyết liệt phòng chống tham nhũng, lãng phí. (7) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. (8) Làm tốt hơn nữa công tác thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội, tạo niềm tin và khát vọng dân tộc. (9) Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả theo dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 và kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2019 - 2021.
2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát từ những bài học lớn được rút ra từ chiều sâu của lịch sử dân tộc, như Nguyễn Trãi đã kết luận, “Lật thuyền mới rõ dân như nước”. Theo Hồ Chí Minh, tôn trọng Nhân dân trước hết phải có thái độ đánh giá đúng vai trò, vị trí của Nhân dân. Muốn thật sự tôn trọng Nhân dân thì phải hiểu dân. Được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân… Cùng với thái độ đánh giá cao vai trò của Nhân dân, ý thức tôn trọng Nhân dân còn phải đặc biệt chú ý không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của dân, không xúc phạm Nhân dân. Phải luôn luôn tôn trọng và giữ gìn của công, của Nhân dân…
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ cộng hòa, dân là chủ thì Chính phủ, Đảng, cán bộ từ Trung ương đến địa phương đều phải phụng sự Nhân dân, là công bộc của dân, "sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân". Từ chỗ đánh giá cao vai trò của Nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân làm chủ và dân là chủ… Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, phải chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Hồ Chí Minh khẳng định: "Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân"
.
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì con người, do con người, trước hết là vì dân và do dân. Người nói rằng: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Cách mạng Tháng Tám thành công, một ngày sau
Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm giải quyết những vấn đề về đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”… Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người dặn trong Di chúc:
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”…
b) Đạo đức Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức tôn trọng Nhân dân thể hiện nổi bật ở sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị của Người. Ý thức tôn trọng Nhân dân ở khía cạnh đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong quan niệm: “ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Tôn trọng Nhân dân là đề cao ý dân, sức dân, bởi "Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, yêu kính Nhân dân, thật sự tôn trọng Nhân dân.
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ. Dân chủ, được hiểu ngắn gọn: dân là chủ và dân làm chủ. Từ chỗ nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức, năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích Nhân dân tham gia vào công việc của Đảng, Chính phủ, thì một điều quan trọng là tạo điều kiện cho dân "dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm". Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là phát huy quyền của người dân về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe...
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân. Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu và rất nhất quán về đạo đức. Người để lại cho chúng ta nhiều phẩm chất đạo đức quý báu, trong đó cao nhất, cốt lõi là chí công vô tư, tức là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân thể hiện rất rõ ở quan điểm khi Người nói đạo đức cách mạng là: "Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân"… Trăn trở về đời sống nhân dân, trong
Di chúc, Người không quên nhắc nhở Đảng, Nhà nước "chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân"…
c) Phong cách Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân
-
Phong cách Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát một cách tự nhiên từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Phong cách tôn trọng Nhân dân của Hồ Chí Minh được thể hiện bằng nhiều cách. Người chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình mình...
-
Phong cách Hồ Chí Minh trong phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng Nhân dân, đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối nội, đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực của Bác… Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu: "Nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”…
-
Phong cách Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân. Trên cơ sở nhận thức "dân dĩ thực vi thiên", nghĩa là dân lấy ăn làm trời, và "có thực mới vực được đạo”, nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả, tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét việc chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong sự nghiệp kiến thiết chủ nghĩa xã hội, người cho rằng: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ”. Người nói: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu cực khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên", tình thương ở Người đã biến thành trách nhiệm của bản thân Người. Người khẳng định: "chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”...
3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Ngày 13/11/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 38-KL/TW về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong đó có một số nội dung chủ yếu sau:
Về kết quả sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá X:
Công tác củng cố, xây dựng Đảng ở cơ sở đã được cấp ủy các cấp nghiêm túc tổ chức thực hiện và đạt được kết quả quan trọng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có chuyển biến tích cực, nhất là ở xã, phường, thị trấn và lực lượng vũ trang. Tổ chức cơ sở đảng kiện toàn, từng bước bảo đảm yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Công tác kết nạp đảng viên được quan tâm, đã kết nạp 2.069.936 đảng viên mới, trong đó hơn 37% có trình độ đại học, gần 67% là đoàn viên thanh niên, 2.351 là chủ doanh nghiệp tư nhân, gần 8% là công nhân, số thôn, bản, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng và đảng viên giảm nhanh, nhiều tỉnh miền núi không còn thôn, bản chưa có chi bộ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở được chăm lo; đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở được trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, năng lực, trình độ chuyên môn ngày càng tốt hơn; năng lực, trình độ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở được nâng lên; nhiều cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn công tác, có lập trường tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu, hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy có chuyển biến tích cực; đa số đảng viên được phân công nhiệm vụ; công tác quản lý đảng viên chặt chẽ hơn; nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở rộng hơn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu, thậm chí mất sức chiến đấu; chưa đủ sức phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở, nhất là những nơi có tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội phức tạp. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, thậm chí một số nơi còn xem nhẹ. Một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng, vai trò tiên phong, gương mẫu còn hạn chế, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình còn yếu. Năng lực, trình độ của một số cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc, nội dung, chế độ sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ, chi bộ chậm đổi mới. Nhiều nơi, chi bộ chưa thể hiện được vai trò hạt nhân chính trị nên nhân dân chưa thực sự tin tưởng, gần 40% thôn, tổ dân phố không giới thiệu được đảng viên để nhân dân tín nhiệm bầu làm trưởng thôn, bản, tổ dân phố.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản nổi lên là: Một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt sâu sắc, toàn diện về vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng cũng như yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chưa cụ thể, chưa sát tình hình thực tế địa phương, đơn vị. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đối với cấp ủy chưa được quan tâm đúng mức. Công tác kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, người đứng đầu các cấp chưa được coi trọng, thiếu quyết liệt, thường xuyên; chưa xử lý nghiêm minh, kịp thời cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập.
Một số nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới:
Để củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu tình hình mới, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng nghiêm túc rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp cụ thể khắc phục các hạn chế, khuyết điểm, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá X; lưu ý tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung sau: (1) Đổi mới và thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên. Tăng cường công tác tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong các hoạt động của Đảng, chính quyền, đoàn thể, nhất là sinh hoạt chi bộ. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác đảng và bồi dưỡng đảng viên mới. (2) Triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các quy định về trách nhiệm nêu gương; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tổ chức các đợt sinh hoạt chuyên đề xây dựng Đảng về đạo đức gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, thực sự tiên phong, gương mẫu và có dũng khí trong đấu tranh tự phê bình và phê bình. (3) Tiếp tục củng cố, kiện toàn mô hình tổ chức cơ sở đảng gắn với việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn; mô hình tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị sự nghiệp theo ngành, địa phương một cách hợp lý. Không tổ chức chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn; đưa đảng viên công tác ở xã, phường, thị trấn về sinh hoạt đảng tại các chi bộ khu dân cư. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; quan tâm công tác tạo nguồn kết nạp đảng viên, nhất là ở thôn, tổ dân phố và trong các doanh nghiệp. Quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; rà soát, sàng lọc để đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. (4) Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Rà soát, bổ sung quy hoạch, chuẩn bị tốt nhân sự cấp ủy cơ sở nhiệm kỳ tiếp theo; xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, nghiệp vụ công tác đảng cho cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ được quy hoạch. Kịp thời kiện toàn cấp ủy, bí thư cấp ủy cơ sở; thực hiện nghiêm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã hoặc thủ trưởng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ở những nơi đủ điều kiện. Lựa chọn, giới thiệu đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy tín để nhân dân bầu làm trưởng thôn, bản, tổ dân phố, sau đó tiến hành kiện toàn chi ủy, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố. Thực hiện tinh giản đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở gắn với việc khoán kinh phí đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, tổ dân phố. (5) Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, trọng tâm là nâng cao chất lượng ban hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kế hoạch công tác hằng năm của cấp ủy. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; sửa đổi, bổ sung và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ, chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm trong tự phê bình và phê bình, nhất là ở các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm nghiêm túc, thực chất, cấp ủy, bí thư cấp ủy phải chịu trách nhiệm về mọi mặt công tác tại cơ sở; nếu địa phương, cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ hoặc mất ổn định chính trị thì cấp ủy, bí thư cấp ủy phải bị xem xét xử lý kỷ luật. (6) Tổ chức cơ sở đảng phải coi trọng công tác dân vận; nắm chắc tình hình tư tưởng của nhân dân, nhất là ở những địa bàn trọng điểm về an ninh trật tự; khi có nảy sinh tình huống phức tạp về trật tự, an ninh, có biện pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục, xử lý kịp thời nhằm ổn định tình hình ngay từ cơ sở. Thực hiện nền nếp việc người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp định kỳ đối thoại, tiếp xúc với đảng viên, nhân dân; cấp ủy viên các cấp dự sinh hoạt chi bộ hằng tháng. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thực hiện tốt việc giải quyết đơn, thư phản ánh của nhân dân đối với tổ chức đảng, đảng viên theo quy định.
4. Những thuận lợi, thách thức cơ bản khi Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
Năm 2017, với tư cách là nước chủ nhà APEC, Việt Nam đã cùng Nhật Bản thúc đẩy để làm sống lại Hiệp định TPP với cái tên mới là CPTPP. Ngày 12/11/2018, Quốc hội nước ta đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP và là một trong 7 nước hoàn thành quá trình phê chuẩn Hiệp định CPTPP (Mê-hi-cô, Nhật Bản, Xinh-ga-po, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Úc và Việt Nam). Thời điểm Hiệp định có hiệu lực với Việt Nam là ngày 14/01/2019.
Các mặt thuận lợi và cơ hội về kinh tế:
- Về mặt kinh tế, mặc dù lợi ích tiếp cận thị trường Hoa Kỳ không còn nữa nhưng các thị trường của các nước tham gia CPTPP vẫn có quy mô khá lớn, có tầm quan trọng với Việt Nam, việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Dự báo, CPTPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 1,32%.
- Đối với xuất khẩu, việc các nước giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của nước ta sẽ tạo ra những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu. Về cơ bản, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của nước ta như nông thủy sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Dự báo xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,04%.
- Việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp ta có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Đây là yếu tố then chốt giúp nước ta nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, dự báo đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 tỷ đô-la Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu.
- Tham gia CPTPP sẽ giúp nước ta có được các cơ hội từ chuỗi cung ứng mới hình thành sau khi CPTPP có hiệu lực, là điều kiện quan trọng để nước ta bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử, công nghệ cao. Đây là cơ hội rất lớn để nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5 - 10 năm tới.
- Cam kết trong CPTPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ của nước ta cũng dễ tiếp cận thị trường các nước tham gia CPTPP hơn.
- Về tác động ngành, các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, một số phân ngành sản xuất và dịch vụ. Dự báo, với các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động khác, CPTPP có thể tạo ra mức tăng trưởng bình quân từ 4% - 5% và mức tăng xuất khẩu có thể đạt từ 8,7% - 9,6%.
- Cũng như tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia CPTPP, một FTA thế hệ mới, sẽ là cơ hội để ta tiếp tục hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của nước ta, đồng thời giúp Việt Nam có thêm cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
- Về mặt xã hội, tham gia CPTPP sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, CPTPP có thể giúp tổng số việc làm tăng thêm từ 350.000 đến 450.000 lao động (bình quân mỗi năm tăng 20.000 - 26.000 lao động). Đối với lợi ích về xóa đói giảm nghèo, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,5 đô-la Mỹ/ngày.
Đặc biệt, do Hiệp định CPTPP bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp ta tăng trưởng bền vững hơn.
- Chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ trong Hiệp định CPTPP giúp các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng sự bảo hộ cao hơn đối với thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo. Bên cạnh đó, tham gia Hiệp định CPTPP thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước ta trong việc hướng tới các chuẩn mực tiên tiến của quốc tế về bảo hộ sở hữu nhằm thực hiện mục tiêu tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh.
- Hiệp định CPTPP với các tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ giúp ta tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương và phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Về các thách thức và giải pháp:
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh là vấn đề đầu tiên đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Quan trọng hơn cả, Việt Nam nhìn nhận đây là con đường mà sớm hay muộn cũng phải đi qua để đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, các cam kết nhiều lĩnh vực toàn diện của Hiệp định CPTPP cũng đặt ra yêu cầu cải cách thể chế, các quy định trong nước liên quan của Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam có thể sẽ cần điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật về kinh doanh, thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, v.v. cho phù hợp với các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, cơ bản những sửa đổi, điều chỉnh này phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính, đổi mới mô hình tăng trưởng của ta. Để thực thi CPTPP, ta phải sửa 8 luật và nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các bộ, ngành. Đây là công việc không hề đơn giản, đòi hỏi các nỗ lực to lớn của các cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian tới để không chỉ đơn thuần điều chỉnh hệ thống pháp luật mà còn đưa các văn bản này vào cuộc sống, đem lại hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, các thách thức ở các lĩnh vực phi kinh tế cũng không hề nhỏ. Đơn cử như việc điều chỉnh các chính sách về lao động, công đoàn để tuân thủ các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự kiến sẽ đòi hỏi phương thức quản lý hoàn toàn mới. Tương tự, các cam kết về “thương mại điện tử” có hiệu lực sau 5 năm nữa sẽ đặt ra các yêu cầu cho công tác đảm bảo an ninh mạng trong tình hình mới với cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với giai đoạn phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Industry 4.0).
C. VĂN BẢN MỚI
I. VĂN BẢN CỦA TỈNH
1. Ngày 04/12/2018, UBND tỉnh ban hành văn bản số 3399/UBND-NNTN yêu cầu các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành phố, các cơ quan Trung ương đóng chân trên địa bàn tỉnh triển khai các hoạt động hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới năm 2018 với chủ đề "Giải quyết ô nhiễm nhựa và nilon" và triển khai Văn bản số 5539/BTNMT-TCMT ngày 10/10/2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phát động phong trào “Chống rác thải nhựa”.
Theo đó, phát động mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hành động và vận động người thân cùng thực hiện “
Nói không với sản phẩm nhựa sử dụng một lần”; Phát động phong trào và huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc thu gom, phân loại các loại sản phẩm đã sử dụng làm từ nhựa, bao bì, túi nilon và vận chuyển đến nơi tái chế, xử lý theo quy định; Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cơ quan và cộng đồng thực hiện các chiến dịch truyền thông về nguy cơ ô nhiễm nhựa và nilon nhằm thay đổi, tiến tới từ bỏ thói quen sử dụng túi nilon khó phân hủy, sản phẩm nhựa khó phân hủy, sử dụng một lần.
Đài Phát thanh và Truyền hình, Báo Kon Tum xây dựng chuyên trang, chương trình cổ động, bài viết, phóng sự chuyên sâu để tuyên truyền về phong trào “
Chống rác thải nhựa”; tác hại của nhựa dùng một lần và nilon đến môi trường và con người; các mô hình sử dụng các sản phẩm thay thế nhựa dùng một lần và nilon.
UBND tỉnh đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh chỉ đạo các cấp đoàn, hội tăng cường tuyên truyền công tác bảo vệ môi trường cho hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân, đồng thời phát động phong trào “
Chống rác thải nhựa” trong cộng đồng để cùng thực hiện “
Nói không với sản phẩm nhựa sử dụng một lần”, nâng cao nhận thức về nguy cơ ô nhiễm nhựa và nilon nhằm thay đổi, tiến tới từ bỏ thói quen sử dụng túi nilon khó phân hủy, sản phẩm nhựa khó phân hủy, sử dụng một lần.
2. Ngày 11/12/2018, UBND tỉnh ban hành Chỉ thị 09/CT-UBND yêu cầu các cấp, các ngành, các đơn vị chủ rừng và nhân dân trên toàn tỉnh triển khai ngay các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng và quản lý, bảo vệ rừng (PCCCR và QLBVR) mùa khô 2018-2019.
Theo đó, thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước về bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng; tổ chức thực hiện có hiệu quả chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh trong công tác PCCCR và QLBVR, trọng tâm là Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách phòng cháy chữa cháy rừng; Văn bản số 8471/BNN-TCLN ngày 30/10/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô 2018-2019 và Quyết định số 459/QĐ-UBND ngày 08/5/2018 của UBND tỉnh về ban hành Chương trình hành động của UBND tỉnh về triển khai thực hiện các nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh.
Thường xuyên chỉ đạo theo dõi, cập nhật thông tin cảnh báo cháy rừng trên hệ thống thông tin cảnh báo cháy sớm của Cục Kiểm lâm và thông báo cấp dự báo cháy rừng định kỳ của Chi cục Kiểm lâm để tổ chức tuần tra, kiểm tra, phát hiện sớm điểm cháy rừng, giải quyết kịp thời, không để đám cháy lây lan trên diện rộng.
Kiểm tra, khoanh vùng trọng điểm có nguy cơ cháy rừng cao, chuẩn bị sẵn sàng, huy động các lực lượng tại chỗ xử lý khi có cháy rừng; bố trí trực PCCCR thường xuyên 24/24 giờ trong những tháng cao điểm của mùa khô (đặc biệt là các ngày nghỉ, lễ tết...) để kịp thời phát hiện và xử lý ngay từ thời điểm ban đầu. Kịp thời phát hiện và biểu dương, khen thưởng đột xuất các tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng. Đồng thời, xem xét trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và người đứng đầu của các đơn vị, địa phương và chủ rừng trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình không có biện pháp bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng và khi có cháy rừng xảy ra, không tổ chức chữa cháy kịp thời.
Chủ động tăng cường quản lý các hoạt động canh tác nương rẫy theo quy hoạch, hướng dẫn và quản lý chặt chẽ việc dọn đốt nương rẫy; kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất nương rẫy tại các khu vực gần rừng, nghiêm cấm sử dụng lửa để xử lý thực bì, đốt nương rẫy và những hành vi dùng lửa khác ở khu vực ven rừng, trong rừng, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định về PCCCR
Tăng thời lượng tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý bảo vệ và phát triển rừng, PCCCR trong các tháng cao điểm; thông tin cấp dự báo cháy rừng hàng ngày trong các tháng mùa khô.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm cơ quan đầu mối theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị, địa phương, chủ rừng trong quá trình triển khai công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh. Trường hợp đám cháy vượt tầm kiểm soát phải kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng tỉnh để có biện pháp xử lý kịp thời: Cơ quan thường trực PCCCR - Chi cục Kiểm lâm: 0603.863.887; 0905.156.144 - đồng chí Nguyễn Tấn Liêm, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm hoặc 0903.594.017 - đồng chí Nguyễn Trung Hải, Giám đốc Sở NN&PTNT.
3. Ngày 12/12/2018, UBND tỉnh ban hành Quyết định 1392/QĐ-UBND phê duyệt Đề án “Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Kon Tum, giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030”(Chương trình OCOP).
Theo đó, mục tiêu của Đề án nhằm khai thác các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên để phát triển đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm nông lâm, thủy sản, dược liệu, sản phẩm phi nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn trong Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Tổ chức thực hiện thống nhất, đồng bộ Đề án Chương trình OCOP theo hệ thống từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã; đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đội ngũ công chức quản lý nhà nước trong hệ thống OCOP và lãnh đạo các doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia Đề án Chương trình OCOP. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh theo hướng gia tăng lợi ích cho cộng đồng, tạo ra nhiều công ăn, việc làm, góp phần phát triển kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị, tăng thu ngân sách tỉnh.
Giai đoạn năm 2018 - 2030 Quy hoạch phát triển 138 sản phẩm theo 06 nhóm/ngành hàng để tập trung đầu tư phát triển gắn với tổ chức sản xuất (gồm 108 sản phẩm nông lâm, thủy sản, dược liệu; 10 sản phẩm phi nông nghiệp đặc trưng như vải may mặc, lưu niệm, nội thất và trang trí và 14 sản phẩm du lịch). Trong đó, tập trung phát triển 85 sản phẩm chủ lực có lợi thế so sánh của các huyện, xã từ các sản phẩm quy hoạch và lựa chọn 10 sản phẩm cấp huyện để tập trung đầu tư đạt tiêu chí là sản phẩm cấp tỉnh và tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm quốc gia. Đến năm 2025, mỗi huyện, thành phố có ít nhất 1 - 2 sản phẩm/năm được hỗ trợ thực hiện theo Chương trình OCOP, các sản phẩm tạo ra có thương hiệu, chất lượng hàng hóa cao đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách tổ chức thực hiện kế hoạch triển khai chương trình OCOP theo Khung thời gian thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Chủ trì, phối hợp với các sở ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và đơn vị liên quan đánh giá định kỳ hàng năm và tổng kết thực hiện Đề án Chương trình OCOP giai đoạn 2018 - 2020, báo cáo tham mưu Ban Chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia cấp tỉnh để đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, phê duyệt Đề án Chương trình OCOP cho giai đoạn tiếp theo.
4. Ngày 12/12/2018, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành công văn số 3471/UBND-TD yêu cầu Thủ trưởng các Sở, ban, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố tự rà soát, đánh giá lại kết quả thực hiện các quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân tại ngành, đơn vị, địa phương mình trong năm 2018; nhận diện rõ các vi phạm, sai sót và tồn tại, nguyên nhân chủ quan và khách quan của các vi phạm để xây dựng kế hoạch khắc phục trong năm 2019.
Trong đó, tập trung làm tốt việc tiếp công dân tại ngành, đơn vị, địa phương mình, đặc biệt là việc tiếp công dân định kỳ của người đứng đầu; tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân theo đúng quy định; thụ lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền đúng trình tự, thủ tục và đúng thời hạn giải quyết, thực hiện nghiêm túc và đúng quy định đối với việc đối thoại trực tiếp với người khiếu nại trong quá trình giải quyết vụ việc; tập trung rà soát, có kế hoạch giải quyết dứt điểm đối với những vụ việc hiện còn đang tồn đọng, kéo dài tại ngành, địa phương mình; theo dõi, nắm chắc tình hình, giải quyết ngay từ đầu các vụ việc có tính chất phức tạp, có thể gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn; quan tâm việc bố trí cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp công dân có năng lực, trình độ, có trách nhiệm với công việc được phân công; thực hiện đúng quy định về chế độ bồi dưỡng, trang phục đối với người làm nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết đơn thư.
Các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện báo cáo cụ thể việc chi trả chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đơn tại Phòng Tiếp công dân, Trụ sở Tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của ngành, địa phương mình từ trước cho đến nay về Sở Tài chính trước ngày 20/12/2018.
Giao Ban Tiếp công dân tỉnh tăng cường việc kiểm tra đột xuất đối với việc thực hiện công tác tiếp công dân của các ngành, địa phương (kể ở cấp xã và các đơn vị hành chính sự nghiệp) trên địa bàn tỉnh, báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh để xem xét, chỉ đạo và xử lý kịp thời về các vi phạm trong lĩnh vực công tác này.
5. Ngày 20/12/2018, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 3532/KH-UBND chỉ đạo thực hiện Kết luận số 956-KL/TU, ngày 07-11-2018, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV về sơ kết thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 24-8-2016 của Tỉnh ủy.
Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu các đơn vị, địa phương liên quan tập trung các nguồn lực theo thứ tự ưu tiên, triển khai, thực hiện các cơ chế, chính sách nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh bình quân đạt 3-4%/năm
(riêng các huyện nghèo giảm 6-8%/năm) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Tập trung giải quyết cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở các huyện nghèo, xã, thôn đặc biệt khó khăn theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như giao thông, trường học, trạm y tế, thủy lợi nhỏ và nước sinh hoạt; xây dựng các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình theo nhu cầu của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và cam kết của địa phương cũng như hộ gia đình tham gia dự án.
Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo, chính sách phát triển sản xuất, đất sản xuất, chính sách tín dụng ưu đãi để cải thiện điều kiện sống của người nghèo; giảm nghèo gắn với an ninh quốc phòng; dạy nghề và hỗ trợ cho lao động thuộc đối tượng đủ điều kiện xuất khẩu lao động.
Chú trọng cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, đảm bảo thu nhập của hộ nghèo tham gia dự án, mô hình tăng 15-20%/năm. Phấn đấu đến năm 2020 đạt mục tiêu: thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2 lần so với cuối năm 2015; cơ bản đáp ứng khả năng tiếp cận của hộ nghèo đối với các dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, tiếp cận thông tin...
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phù hợp và phương pháp truyền thông hiệu quả về các chính sách, dự án của Đề án giảm nghèo…
Tăng cường và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cấp thôn, xã, huyện, đặc biệt là các xã nghèo, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số cao; sử dụng có hiệu quả đội ngũ cộng tác viên giảm nghèo cấp xã, không chồng chéo, trùng lắp nhiệm vụ với đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cấp xã…
Thực hiện tốt việc lồng ghép nguồn lực từ các chính sách có cùng mục tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo thuộc các lĩnh vực bảo đảm đồng bộ, hiệu quả, dễ theo dõi dễ thực hiện; trong đó tập trung vào 3 nhóm chính sách: Hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ về lao động-việc làm, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo; hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các dịch vụ gắn với tiêu chí đa chiều như y tế, giáo dục và đào tạo, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin và truyền thông; phát triển hạ tầng các vùng khó khăn, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, ưu tiên phát triển hạ tầng thiết yếu như giao thông, trường học, trạm y tế, thủy lợi nhỏ và nước sinh hoạt.
Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế phối hợp trong việc thực hiện chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo; bảo đảm sử dụng đúng nguồn kinh phí đầu tư vùng nghèo, hỗ trợ hộ nghèo. Định kỳ hàng năm tổ chức tổng kết đánh giá từ cấp xã, cấp huyện đến cấp tỉnh để phát huy các mặt tích cực, khắc phục các khuyết điểm, hạn chế trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.
Sở Lao động-Thương binh và Xã hội làm cơ quan đầu mối, tiếp tục theo dõi, giám sát, kiểm tra đánh giá, tổng hợp tình hình thực hiện Đề án giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận nghèo đa chiểu tỉnh Kon Tum, giai đoạn 2016-2020; định kỳ tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện theo quy định.
II. VĂN BẢN CỦA TRUNG ƯƠNG
Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT). Nghị định gồm 43 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2018. Nghị định quy định một số điểm mới như sau:
- Bổ sung đối tượng tham gia BHYT, trong đó có thân nhân của công nhân, viên chức quốc phòng phục vụ trong quân đội, công an, cơ yếu; các trường hợp được ngân sách nhà nước đóng 100% phí mua thẻ BHYT, bao gồm: dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế; thanh niên xung phong cơ sở miền Nam tham gia kháng chiến giai đoạn 1965 - 1975… Nghị định cũng quy định thêm các nhóm tham gia theo hình thức hộ gia đình: chức sắc, chức việc, nhà tu hành; người sinh sống trong cơ sở bảo trợ xã hội...
- Quy định ba mức hưởng BHYT đối với từng đối tượng là 80%, 95% và 100%. Trong đó, có 5 trường hợp được hưởng toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh (KCB) BHYT, cụ thể: (1) người có công với cách mạng, cựu chiến binh; (2) người được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng; (3) người thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; (4) thân nhân của người có công với cách mạng; (5) người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng.
- Hỗ trợ toàn bộ chi phí khám chữa bệnh (KCB) và không áp dụng giới hạn tỷ lệ thanh toán thuốc, hóa chất, vật tư y tế và dịch vụ kỹ thuật đối với: (1) người hoạt động cách mạng trước năm 1945; (2) Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; (3) thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; (4) người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; (5) trẻ em dưới 6 tuổi. Hỗ trợ toàn bộ chi phí KCB tại tuyến xã. Hỗ trợ toàn bộ chi phí KCB đối với các trường hợp chi phí cho một lần KCB thấp hơn 15% lương cơ sở (hiện nay lương cơ sở là 1,39 triệu đồng/tháng). Và hỗ trợ toàn bộ chi phí KCB khi người bệnh tham gia BHYT 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí KCB trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ khi tự đi KCB không đúng tuyến.
- Cùng với việc quy định một số điểm mới đáng chú ý như: bổ sung một số đối tượng tham gia BHYT; quy định tham gia theo hộ gia đình (không bắt buộc tham gia cùng thời điểm); Nghị định 146 cũng quy định chi tiết hơn hồ sơ, điều kiện, nội dung và mẫu hợp đồng KCB BHYT; bỏ quy định giao quỹ KCB cho cơ sở KCB (kể cả trạm y tế xã), thay vào đó là giao tổng mức thanh toán; sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể về thanh toán chi phí KCB; bổ sung quy định mới về công nghệ thông tin trong quản lý KCB BHYT…
- Ngoài ra, Nghị định quy định, chậm nhất đến ngày 01/01/2020, cơ quan BHXH phải thực hiện phát hành thẻ BHYT điện tử cho người tham gia BHYT.