Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng (làng Đăk Re, xã Đăk Na, huyện Đăk Tô), Y Buông - người con của dân tộc Xơ đăng đã sớm giác ngộ cách mạng và tham gia phục vụ kháng chiến. Năm 13 tuổi, Chị đã làm liên lạc đưa đường cho cán bộ vào vùng tạm chiếm hoạt động. Gần 15 năm (từ 1960-1973) làm công tác nuôi quân, một công việc thầm lặng nhưng đầy khó khăn vất vả. Ngày đó, cuộc sống của bộ đội còn thiếu thốn, khó khăn, bữa ăn chỉ có cơm với rau rừng, mắm khô; có những lúc gạo hết, mắm muối cũng không còn. Thương anh em bộ đội, Y Buông đi bẻ măng, đào củ mài, củ chuối rừng về cho anh em bộ đội ăn thay cơm. Chị xuống suối mò cua, xúc cá về nấu cháo cho bộ đội khi bị thương hoặc đau ốm. Chị xem đồng đội của mình như anh em ruột thịt.
Làm nhiệm vụ nuôi quân ở căn cứ và cấp dưỡng phục vụ Đại đội 130 của tỉnh trong 5 năm, năm 1965, Y Buông được điều về Tiểu đoàn 304 ngay khi đơn vị này được thành lập. Nuôi quân ở đơn vị chiến đấu, phải hành quân cơ động vất vả, Y Buông vẫn luôn bám sát và phục vụ nhu cầu ăn, uống cho đơn vị đầy đủ, kịp thời; không có trận đánh ác liệt nào, không có chiến trường khó khăn nào Chị vắng mặt.
Từ năm 1965 đến năm 1970 là giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất. Đơn vị phải hành quân, di chuyển liên tục trong tầm pháo của địch. Y Buông vẫn kiên cường, gan dạ phục vụ chiến đấu. Chị trực tiếp gùi cơm lên tận các chốt điểm cho bộ đội đang chiến đấu. Làm công tác nuôi quân chiến đấu thì tính mạng cũng thường xuyên bị đe dọa.
Chị kể: Một lần vào năm 1967, anh em đi tải gạo, đơn vị chỉ còn 6 người ở lại trong đó có Chị. Địch tập kích vào hậu cứ của đơn vị. Nhận lệnh chỉ huy của Đại đội trưởng, Chị ném lựu đạn giết ba tên địch và dùng khẩu cạc bin loại một tên. Trận đó, Chị và 5 đồng đội diệt gọn một tiểu đội địch, số còn lại thoát thân… Rồi một lần khác, anh em ở trên chốt chiến đấu chỉ còn Chị với hai người ở đơn vị. Đang chuẩn bị nấu cơm, thì bọn biệt kích đến đánh ta từ phía sau. Bị bất ngờ, anh em rút lui mỗi người một ngả. Lần đó, Y Buông bị lạc đơn vị 2 ngày. Năm 1968, trong một chuyến lên điểm chốt thì pháo địch bắn tới. Mặc cho đạn pháo địch bắn tới tấp, chị vẫn tìm mọi cách để bảo vệ nồi cơm. Lúc tránh đạn pháo địch, chị vẫn nhoài người lấy thân mình che giữ nồi cơm, mặc cho đất đá, cành cây vùi lấp. Đến khi anh em moi lên thì nồi cơm vẫn còn nguyên vẹn. Anh em hỏi vì sao chị lại làm như vậy thì chị nói: Mình che nồi cơm để đạn pháo, đất đá không trúng vào nồi cơm, để còn cái nồi nấu cơm và còn cơm cho anh em ăn. Và nếu đạn pháo có trúng vào mình, mình có hy sinh thì còn cái nồi, còn người khác nấu cơm thay. Chứ mất cái nồi thì lấy gì nấu cơm cho bộ đội ăn mà đánh giặc… Năm 1969, đơn vị hành quân từ Đông đường 14 qua phía Tây đường 14, đến Đăk Tem thì bị ném bom, Y Buông lại bị vùi lấp, anh em phải đào bới mãi mới lôi lên được…
Quá trình phục vụ chiến đấu, hàng trăm lần trong hoàn cảnh bom đạn địch đánh phá ác liệt, Chị vẫn tìm mọi cách nấu được cơm và gùi đến trận địa cho bộ đội. Ở Y Buông phẩm chất anh hùng xuất phát từ tình yêu thương đồng chí, đồng đội vô hạn, lòng căm thù giặc cao độ và sự cần mẫn chăm chỉ, vượt khó của người con gái Xơ đăng. 27 năm phục vụ quân ngũ, về hưu với một chân bị gãy. Ghi nhận công lao đóng góp của Chị, Nhà nước đã tặng thưởng 01 Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, 16 bằng khen và giấy khen, 03 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Ngày 20/12/1973, Y Buông được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu: "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân". Lúc đó Chị là Trung đội phó nuôi quân thuộc Tiểu đoàn 304 bộ đội địa phương Kon Tum, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, đồng chí Y Buông với 78 tuổi đời và 60 tuổi Đảng, vẫn sống bình dị, khiêm nhường và là nguồn cảm hứng cách mạng để cho con cháu noi theo.
Bài, ảnh: Ngô Đức Hải