I. Những sự kiện lịch sử tháng 2: Ngày 09-02-1913: Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Kon Tum Theo Nghị định này, vùng lãnh thổ tỉnh mọi Pleikou Derr khôi phục lại thành một tỉnh tự trị và được mang tên là tỉnh Kon Tum; tỉnh lỵ đặt tại Kon Tum. Địa bàn tỉnh Kon Tum bao gồm: Trung tâm hành chính Kon Tum (Đại lý Kon Tum) tách từ tỉnh Bình Định; Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú yên; Đại lý Đăk Lăk (theo nghị định này tỉnh Đăk Lăk bị bãi bỏ đơn vị hành chính cấp tỉnh và được sáp nhập vào tỉnh Kon Tum). Tháng 02-1941: Đồng chí Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ vượt ngục Đăk Glei Đồng chí Tố Hữu và đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ bị địch bắt trong phong trào đấu tranh dân chủ và bị đầy lên giam ở nhà ngục Đăk Glei. Sau một thời gian chịu sự giam cố của thực dân Pháp, đến tháng 02-1941, hai đồng chí đã được nhân dân bí mật giúp đỡ dẫn đường trốn thoát được ngục tù của địch, trở về đồng bằng tiếp tục hoạt động. Tháng 02-1946: Kon Tum thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Sau Cách mạng Tháng 8-1945, Kon Tum nhanh chóng khôi phục lại hai tổ chức đảng. Tuy nhiên, hai chi bộ mới ở Kon Tum được thành lập chưa đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo mọi nhiệm vụ. Tháng 01-1946, Xứ ủy Trung kỳ cử đồng chí Trần Lung là Xứ ủy viên trực tiếp phụ trách công tác Đảng của tỉnh Kon Tum. Đầu tháng 02-1946, Tỉnh ủy lâm thời Kon Tum thành lập, đồng chí Trần Lung được chỉ định làm Bí thư, trực tiếp phụ trách chính quyền; các Ủy viên lâm thời gồm: 1. Đồng chí Võ Thị Hồng Sâm: phụ trách công tác thường trực Tỉnh ủy; 2. Đồng chí Lê Văn Đức: phụ trách công tác quân sự; 3. Đồng chí Lê Tự Thắng-Chính trị viên-phụ trách công tác chính trị. Nhiệm vụ của Tỉnh ủy lâm thời lúc bấy giờ chỉ đạo toàn diện mọi mặt hoạt động của tỉnh Kon Tum. Ngày 07-02-1954: Giải phóng thị xã Kon Tum Triển khai Chiến dịch Bắc Tây Nguyên, từ tháng 01 đến tháng 02-1954, ta liên tiếp mở nhiều đợt tấn công địch. Cuối tháng 01 đầu tháng 02-1954, bị ta tấn công tiêu diệt ở phía bắc Kon Tum, lực lượng địch trong thị xã Kon Tum điên cuồng bắn phá để nống lấn và cầu cứu viện trợ hòng thoát khỏi sự bao vây cô lập của ta. Về phía ta, ngay sau khi tiêu diệt đồn Kon Praih, Trung đoàn 803 đã nhanh chóng về chốt chặn phía bắc thị xã và điều Tiểu đoàn 59 (Trung đoàn 803) triển khai chốt chặn phía thị xã Kon Tum, cắt đường tiếp tế của địch qua đường 14 (đoạn từ Pleiku lên Kon Tum). Ngày 28/01/1954, nhận được điện cầu cứu của địch ở tiểu khu Kon Tum, Đờ Bô Pho điều động binh đoàn cơ động 100 (GM 100) từ Phú Yên lên nhằm hỗ trợ chiếm lại những vị trí đã mất. Ngày 01/02/1954, 1 đại đội của Binh đoàn cơ động 100 đã bị Tiểu đoàn 39, Trung đoàn 803 diệt tại Kon Xâm Lũ (đông bắc thị xã Kon Tum). Ngày 04/02/1954, Tiểu đoàn 59 (Trung đoàn 803) cũng đã chặn đánh và diệt gọn 7 xe vận tải tiếp tế của địch lên tiếp viện cho Kon Tum. Bị vây chặt từ tất cả các hướng, quân địch trong thị xã liên tục dùng pháo bắn phá và đưa quân nống lấn về phía đường 14 (thị xã Kon Tum đi Đăk Tô) và đường 5 (từ thị xã Kon Tum đi Măng Đen) nhưng đều bị ta đánh bại và cô lập trong nội thị. Ở nội thị, ta đã phát động quần chúng nội thị nổi dậy hỗ trợ. Trước tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân từ bên trong và bao vây chặt chẽ của lực lượng quân đội của ta bên ngoài, tướng Đờ Bô Pho (De Beaufort) được lệnh bỏ thị xã Kon Tum rút chạy về phòng ngự Pleiku. Ngày 07/02/1954, thị xã Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Tháng 02-1954: Thành lập Uỷ ban quân quản thị xã Kon Tum Ngày 07-02-1954, thị xã Kon Tum và toàn tỉnh Kon Tum được hoàn toàn giải phóng, cán bộ và lực lượng vũ trang ta vào tiếp quản Thị xã, đồng thời tuyên bố thành lập Ủy ban quân quản và chính quyền cách mạng. Thành phần Ủy ban quân quản thị xã Kon Tum gồm 5 đồng chí do đồng chí Lê Hoàng, Chủ nhiệm Ban chính trị Mặt trận Miền Tây làm Chủ tịch. Ngày 14-02-1954: Kon Tum tổ chức mít tinh mừng quê hương hoàn toàn giải phóng Chào mừng ngày quê hương được hoàn toàn giải phóng, ngày 14-02-1954, Ủy ban quân quản thị xã Kon Tum tổ chức Lễ mít tinh trọng thể tại sân vận động Kon Tum với sự tham gia của đông đảo cán bộ, chiến sỹ và quần chúng nhân dân. Cuộc mít tinh đã khuyếch trương lực lượng cách mạng; ghi nhận công lao đóng góp của quân và dân toàn tỉnh qua 9 năm trường kỳ kháng chiến vượt qua khó khăn gian khổ, anh dũng, hy sinh để làm nên chiến thắng toàn dân, toàn diện trường kỳ, đập tan ý đồ xâm lược của thực dân pháp, đem lại hòa bình, độc lập, tự do cho quê hương, dân tộc. Tại cuộc mít tinh, Ủy ban quân quản cũng đã kêu gọi, động viên quân và dân toàn tỉnh tiếp tục phát huy tinh thần cách mạng tiến công tham gia phục vụ tiền tuyến nhằm góp phần giải phóng các địa phương còn lại. Ngày 02-02-1958: Bộ tư lệnh Quân khu 3 (VNCH) tiến hành thám sát đường 14, vùng cực bắc Kon Tum[1] Vùng cực bắc Kon Tum, từ Đak Ro Tah đến ĐakMolan và Đak R'Lao là một vùng rừng rậm hoang vu, chưa hề được quân đội đặt chân tới. Để nhận xét về tình trạng các trục giao thông, cầu cống, các chướng ngại vật thiên nhiên cũng như mọi vấn đề liên quan tới khí hậu, nhân văn và tiếp tế để định hướng trong chiến lược quân sự sau này. Ngày 02/02/1958, Bộ tư lệnh Quân khu 3 (Việt Nam Cộng hoà) mở cuộc hành quân khảo sát binh địa trong vùng Bắc Kon Tum. Cuộc hành quân chia làm 2 giai đoạn: + Giai đoạn 1: từ Đăk RoTah đến Đak Molan. + Giai đoạn 2: từ Đak Molan qua Đak R’Lao trở về điểm xuất phát. Ngày 19-02- 1959: Khánh thành chùa Trung khánh Vào đầu năm 1958, dưới sự vận động của cụ Lâm Hữu Hạnh, các tín đồ phật tử ở Kon Tum đã đóng góp tiền tài, vật lực để xây dựng chùa Trung Khánh. Cụ Lâm Hữu Hạnh đã mời Hoà thượng Thích Huệ Chiều về làm trưởng ban xây dựng, còn cụ làm Phó Ban. Ngày 19-02-1958, lễ động thổ xây dựng Chùa được tiến hành dưới sự chứng minh của Hoà thượng Thích Huệ Chiều- Trụ trì Tổ đình Thiên Đức, cũng là người chịu trách nhiệm đứng ra xây dựng Chùa. Khuôn viên Chùa rộng khoảng 02 sào. Các hạng mục chính gồm: Chánh điện, nhà Hậu Tổ. Nhà Tổ chia làm 3 ngăn: Giữa thờ các vị Tổ khai sơn Chùa, tây làm nhà khách; đông để chư tăng ở. Sau một năm triển khai, ngày 19-02-1959, công việc xây dựng hoàn thành, 300 tín đồ, phật tử đã tập hợp về làm lễ khánh tạ lạc thành an vị Phật, cũng là lễ khánh thành Chùa. Ngày 21-02-1960: Đại hội đồng tỉnh hội phật giáo Kon Tum lần thứ nhất Đầu năm 1960, Thành lập Tổng hội phật giáo tỉnh Kon Tum, Hoà thượng Thích An Chánh, trụ trì chùa Bác Ái được mời làm Chánh Hội trưởng, ông Ngữ làm Hội phó. Để tiến hành công việc phật sự theo đúng đường hướng và chỉ đạo của Tổng hội Trung phần, 8 giờ, ngày 21-2-1960 (nhằm ngày 25 tháng giêng, năm Canh Tý), Đại hội đồng Tỉnh hội phật giáo Kon Tum lần thứ nhất được khai mạc tại chùa Hội quán Trung Khánh. Tại Đại hội, sau khi tiến hành nghi lễ cầu nguyện, Đại hội đồng đã kiểm điểm toàn bộ công việc từ 1958 đến hết năm1959, xây dựng chương trình hoạt động năm 1960-1961, bầu cử Ban trị sự Tổng hội (Danh sách Ban trị sự được chuẩn y ngày 04-7-1960) và bầu cử đại biểu đi dự Đại hội đồng tổng Hội tại Huế. Tháng 02-1960: Đồng chí Đinh Gió hy sinh Tháng 02-1960, trong một trận càn lớn của địch lên vùng căn cứ H29, địch đốt phá nhà cửa, cướp bóc tài sản, lương thực của nhân dân, truy tìm cơ sở, bắt giết cán bộ. Trong trận càn này, chúng đã bắt được hai cán bộ cơ sở người địa phương, trong đó có đồng chí Đinh Gió, người làng Nước Chè, Xã Đăk Xlò, H29 (nay là xã Ngok Tem, huyện Kon Plông). Bọn địch đã tra tấn, đánh đập dã man Đinh Gió, bắt khai báo, dẫn đường đi bắt cán bộ, tìm căn cứ cách mạng ta. Với lòng kiên trung với cách mạng, Đinh Gió cương quyết không khai. Biết không thể khuất phục được, địch bắn chết ông. Đồng chí Đinh Gió được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu AH LLVTND ngày 20/12/1994. Đêm 01 rạng ngày 02-02-1964: Đặc công Quân khu 5 tấn công khu cố vấn phái bộ Mỹ MAAG tại thị xã Kon Tum Đêm 01 rạng ngày 02-02-1964, bộ đội đặc công 407 Quân khu 5 đã tổ chức tấn công khu cố vấn Mỹ của phái bộ MAAG ở Tây Nguyên, đóng tại thị xã Kon Tum. Cuộc tấn công đã tiêu diệt trên 130 tên sỹ quan Mỹ - nguỵ, phá tan toàn bộ nhà cửa. Buộc địch phải thiết quân luật toàn bộ Thị xã và vùng phụ cận. Đây là trận tấn công đầu tiên của ta ở Tây Nguyên đánh lớn vào sào huyệt của địch, gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Đưa tin về trận đánh này, hãng tin AFP của Mỹ đã phải thú nhận:" Đây là một thất bại chưa từng có của Mỹ ở Cao nguyên Trung phần". Ngày 15-02-1966: Mỹ tăng cường hai tiểu đoàn không vận đóng chốt tại Tân Cảnh Ngày 15-02-1966, Mỹ đưa 2 tiểu đoàn không vận đến đóng ở Tân Cảnh nhằm khống chế cách mạng ở vùng cực bắc Mặt trận Tây Nguyên. Đến giữa năm 1966. Mỹ đã chốt giữ 18 cứ điểm và 2 khu quân sự là thị xã và Kon Hơ Yao, cùng nhiều cứ điểm nhỏ dày đặc trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Một tiểu đoàn dù của mỹ và 150 cố vấn Mỹ cùng với nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại vào Kon Tum nhằm tiếp sức, phối hợp chặt chẽ với quân ngụy, cùng triển khai cắm đồn, chốt giữ đẩy mạnh nhiều cuộc hành quân càn quét “tìm và diệt”. Ngày 21- 2-1967: Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị về việc ra sức đánh bại âm mưu và hành động biệt kích, gián điệp của địch Một trong những thủ đoạn chiến lược mà địch cho là hiệu quả nhất trong chiến tranh xâm lược của chúng là tổ chức và hoạt động của gián điệp, biệt kích để chống lại phong trào cách mạng của các nước mà chúng đang dày công thực hiện. Riêng tại địa bàn Kon Tum, trong những năm qua địch hết sức chú trọng xây dựng lực lượng này trong người địa phương. Chúng đã xây dựng một số căn cứ biệt kích tại các khu vực như: Đăk Pét, Kleng, Măng Bút, Măng Đen...Đây là lực lượng được trang bị phương tiện thông tin chiến tranh hiện đại, chúng được di chuyển nhanh, cơ động bằng máy bay. Khi phát hiện mục tiêu thì gọi điện cho máy bay đến đánh phá. Trong thời gian đó, địch sử dụng lực lượng này hoạt động một cách liên tục, đánh sâu vào vùng căn cứ của ta, gây cho ta nhiều thiệt hại. Để đánh bại âm mưu và hoạt động gián điệp, biệt kích của địch, Tỉnh uỷ Kon Tum đã ban hành Chỉ thị số 4/VP/CT ngày 21-2-1967, chỉ đạo cho các cấp các nghành, các đơn vị vũ trang. Chỉ thị nêu rõ: 1. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải nhận rõ âm mưu thủ đoạn của địch, thấy chỗ nguy hiểm của chúng, mặt khác phải thấy những nhược điểm, sơ hở của bọn này để quyết tâm đánh bại. 2. Về chỉ đạo tác chiến phải huy động mọi lực lượng, bám thật chặt, lùng kỹ, truy thật sát, diệt gọn, đánh liên tiếp, đánh khi chúng chưa kịp đặt chân xuống đất, khi chúng mới xuất hiện. 3. Ra sức xây dựng làng chiến đấu và chỉ khi nào làng chiến đấu được xây dựng vững chắc mới tạo mọi điều kiện đánh bại mọi hoạt động của gián điệp, biệt kích sâu vào vùng ta. Phải đẩy mạnh bố phòng ở các hướng mà chúng thường lui tới hoạt động. Ngoài các loại chông, cần đào nhiều hầm chông thò, bẫy đá...Chú ý những hướng cất dấu tài sản, nơi tản cư của dân. 4. Qua phong trào phát động quần chúng, tiến hành thanh khiết nội bộ nhân dân, nhất là dọc vùng biên giới, ven căn cứ và chung quanh các căn cứ biệt kích. Có kế hoạch bám sát, chặn những phần tử xấu, những đối tượng hiềm nghi, tăng cường giáo dục gia đình và những người có quan hệ với bọn biệt kích, gián điệp....Kiểm soát chặt những người lạ mặt qua lại, nhất là trên các tuyến hành lang. 5. Phải theo dõi, chỉ đạo sát từng hướng, từng vùng. Thường xuyên sơ kết những thủ đoạn mới của địch, rút cho được kinh nghiệm để chỉ đạo sát từng lúc, từng nơi. Đồng thời thường xuyên sơ kết phát huy những thành tích đã đạt được để động viên và đẩy mạnh phong trào lên. Xây dựng quyết tâm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của gián điệp, biệt kích. Từ ngày 15-02 đến ngày 30-4-1967: Chiến dịch Xuân 1967 (còn gọi là chiến dịch Sa Thầy II) giành thắng lợi Nhằm tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp chiến trường đồng bằng Khu 5 giành và giữ dân, phát triển du kích chiến tranh và rèn luyện bộ đội, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch Xuân 1967. Khi ta bước vào chiến dịch thì đồng thời quân Mỹ cũng đổ bộ càn quét vùng Sa Thầy hòng chiếm lại đồi D10 và C16 đã bị ta khống chế trong chiến dịch Đông - Tây Sa Thầy. Từ ngày 15 đến 16-02-1967, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 66 đã diệt 2 đại đội Mỹ tại đồi D10 và tại làng Mít Sép (tây huyện 4- Gia Lai). Ngày 16-02, Tiểu đoàn 430 phục kích diệt 1 đại đội quân Mỹ và diệt khoảng 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2, sư đoàn 4 của Mỹ. Ngày 21-02, Tiểu đoàn 320 tiếp tục diệt trận địa pháo của địch tại đồi Đất Đỏ. Đến ngày 8-3-1967 chúng phải rút khỏi khu vực đồi D10, chỉ chốt lại một số quân tại đồi C16. Trước tình hình đó, ta chủ trương tấn công đồi Đất Đỏ và đánh khu vực đồi C16. Đồng thời tấn công và giành thắng lợi trên các hướng khác: đánh 8 trận trên đường 15, diệt 119 tên, bắn rơi 5 máy bay; diệt 115 lính Mỹ và 11 xe quân sự trên đường 19. Bước sang đợt 2, Mỹ tăng quân về đối phó với ta ở đông sông Pô Kô. Ta đẩy mạnh tấn công toàn diện trên các hướng đông, tây Sa Thầy, hướng Plei Mơrông và nam Buôn Đôn (Đăk Lăk), Đức Cơ (Gia Lai), Kon Praih (Kon Tum). Ngày 12-3, ta pháo kích đồi C16, diệt tiếp 1 đại đội Mỹ tại Mít Sép, diệt 2 đại đội pháo và đánh thiệt hại lữ đoàn 2 (Sư đoàn 4) tại Sùng Thiện. Địch thua đau buộc phải co về Chư Pảh và tiếp tục bị ta tấn công, bắn rơi 2 máy bay. Ngày 18-3, địch rút khỏi tây sông Sa Thầy. Thừa thắng, Trung đoàn 320 chuyển qua đông sông Sa Thầy, phối hợp với Trung đoàn 66 và trung đoàn 88 tấn công vào Chư Pảh. Ngày 30-4-1967, chúng dồn quân quanh vùng Chư Pảh định mở cuộc hành quân Francio-Marion. Tuy nhiên, dự định không thực hiện, vì quân số địch đã cạn kiệt, chưa kịp bổ sung. Chiến dịch Xuân 1967 kết thúc thắng lợi. Ngày 28-02-1967: Tỉnh ủy Kon Tum quyết định thành lập Ban cán sự Tây đường Theo đó, Ban cán sự Tây đường gồm các đồng chí: 1. Phan Vững (Rét): Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự 2. Võ Tấn Lộc (Banh): Phó Ban Tuyên văn giáo, Ủy viên thường trực 3. Lê Tấn Nhất (Thuận): Chính trị viên phó của N34 (Tỉnh đội), Ủy viên thường trực 4. Đinh Tú: TUV, làm Ủy viên 5. Nguyễn Bá Hội (Tụ): Phó Bí thư N41, làm Ủy viên Ban cán sự Tây đường chịu sự lãnh đạo trực tiếp của T150 (Tỉnh ủy) và chịu sự chỉ đạo về mặt quân sự của N34 và B3. Tháng 02-1968: Các cơ sở mật nội thị bị lộ, bị địch bắt, khủng bố sau Tết Mậu Thân 1968 Trong quá trình chuẩn bị và Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, do ta chưa có kinh nghiệm tiến công vào sâu trong hậu phương địch, mất cảnh giác, chưa khéo léo bí mật đã để bộc lộc các cơ sở trong lòng thị xã và trong hàng ngũ địch, nên sau khi chiếm lại thị xã, địch tiến hành truy tróc bắt bớ các cơ sở cách mạng, khủng bố phong trào quần chúng nội thị. Trong tháng 02-1968, hầu hết các cơ sở nòng cốt trong nội thị đều bị địch phát hiện bắt giữ. Các cơ sở quan trọng khu căn cứ lõm nội thị như: quán giải khát Cao Nguyên của chị Bùi Thị Tưởng, Nhà hàng Hồng Công của ông Dư Tư Tòng, các gia đình ông Bùi Vật, bà Nguyễn Thị Khảm, Bà Kiều Thị Truy, Nguyễn Thị Hiệp,......cùng một số cán bộ của H5 vào hoạt động hợp pháp tại nội thị như các đồng chí Dương Hữu Trợ, Nguyễn Thị Bích Châu...đều bị phát hiện và bắt giữ, bị tù đầy. Ở vùng ven thị xã, vùng bàn đạp Trung Tín của H5, bọn địch cũng truy tróc, phát hiện hàng chục hầm bí mật và 54 cơ sở. Các gia đình cơ sở như bà Nguyễn Thị Mận, bà Huỳnh Thị Lén, ông Phạm Bồng, ông Nguyễn Đức Bá...đều bị bắt giữ, tra khảo dã man. Sau Mậu Thân 1968, các cơ sở mật tại địa bàn thị xã Kon Tum đã hầu như bị xoá trắng. Đây là một tổn thất khá lớn của phong trào cách mạng thị xã Kon Tum nói riêng, tỉnh Kon Tum nói chung. Ngày 10-02-1969: Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị về việc mở chiến dịch diệt ác, phá kèm Bước sang năm 1969 địch ra sức thực hiện âm mưu quét và giữ, tiến hành "Bình định cấp tốc", tích cực giành dân, thực hiện âm mưu chuyển tổ chức vào hoạt động ngầm để chống phá ta một cách thâm độc, lâu dài; chúng ra sức khống chế, kìm kẹp nhân dân. Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào đánh địch, giành dân, giành quyền làm chủ, thực hiện nhiệm vụ trọng tâm theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 3 và Hội nghị Tỉnh uỷ tháng 02-1969, Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 08/VP ngày 10-02-1969 quyết định mở chiến dịch diệt ác, phá kèm toàn tỉnh, nhằm tạo thuận lợi cho việc phát động quần chúng giành dân làm chủ. Chỉ thị yêu cầu: 1. Tiếp tục đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị, binh vận lên một bước mới. Tập trung diệt ác, phá kèm...làm tan rã hơn nữa hàng ngũ địch, nâng khí thế quần chúng trong vùng địch còn kiểm soát lên một bước, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy thực hiện nhiệm vụ giành dân làm chủ... 2. Diệt thật nhiều bọn ác ôn trong nguỵ quân, nguỵ quyền như Phượng hoàng, bọn mật vụ thám báo, bọn bình định cấp tốc, bọn tề điệp đang khống chế kìm kẹp quần chúng tại thôn ấp. Qua diệt ác mà phân hoá, cô lập bọn cố tình chống phá ta, nợ máu với quần chúng, đồng thời làm rung động số còn lại... 3. Cương quyết thanh khiết cho được nội bộ quần chúng trước tiên ở một số nơi ta định trụ bám để xây dựng mở rộng bàn đạp tấn công địch trong thời gian tới và mở rộng diện làm chủ. 4. Thông qua diệt ác mà nâng cao căm thù địch, lập trường quan điểm của cán bộ, đảng viên và chiến sĩ lên một bước... Chỉ thị cũng nêu rõ thời gian, lực lượng thực hiện, đối tượng tiêu diệt và phương pháp tổ chức, chỉ đạo chiến dịch. Đêm 22 rạng 23-02-1969: Lực lượng chủ lực Tây Nguyên tấn công căn cứ Plây Kần Từ đêm 22 rạng ngày 23-02-1969 một bộ phận bộ đội Trung đoàn 40 đã tiến hành vây hãm, tấn công trại lực lượng đặc biệt Plây Kần. Căn cứ Plây Kần nằm án ngữ trên đường 18 (nay là quốc lộ 40), được Mỹ xây dựng từ năm 1967 đây là một cứ điểm mạnh của địch án ngữ khu vực ngã ba biên giới. Pháo 85 nòng dài của ta xuất hiện trên chiến trường, ngay phút đầu đã phát huy uy lực, giáng đòn bất ngờ gây cho địch thiệt hại lớn. Cuộc vây hãm Plây Kần dài ngày đã gây cho địch nhiều khốn đốn. Địch cho hàng trăm lần chiếc máy bay B52 ném bom dữ dội vào trận địa pháo của ta. Dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, các trận địa pháo của ta vẫn kiên cường giữ vững trận địa và đánh trả máy bay địch gần 20 ngày đêm. "Khẩu đội thép" đại đội 48 cao sạ do Trần Trọng Diễn chỉ huy có ngày phải đánh trả tới 76 lần chiếc máy bay Mỹ, và chiến đấu đến người cuối cùng để giữ vững trận địa. Được pháo binh yểm trợ, đêm 3/3, ta cho 4 chiếc xe tăng lội nước PT76, xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường, bí mật tiến sát Plây Kần, dùng hoả lực trên xe bắn thẳng vào các mục tiêu trong căn cứ, diệt 6 xe bọc thép, phá hỏng 1 đại bác 175 ly và làm nổ 4 kho xăng đạn của địch. Với việc bao vây và tấn công Plây Kần, lần đầu tiên pháo binh Tây Nguyên đảm nhiệm tác chiến độc lập, sử dụng hoả lực nhiều tầng, kết hợp với một lực lượng nhỏ bộ binh tấn công địch dài ngày, đạt kết quả tốt, mở ra một lối đánh mới, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đêm 22 rạng 23-02-1969: Mỹ-ngụy tàn sát 350 người ở Kon Hơ Ring[2] Từ cuối năm 1968 đến đầu năm 1969, bằng những trận ném bom, bắn phá càn quét liên tục hết sức dã man, Mỹ-ngụy đã cưỡng bức hàng ngàn đồng bào, hầu hết thuộc dân tộc Xơ Đăng theo đạo Thiên chúa ở 47 làng, đưa về tập trung ở Kon Hơ Ring. Ở đây, họ đã bị Mỹ-ngụy tra tấn đánh đập, bắt lao động khổ sai, ăn uống đói khổ,... Để tự giải thoát giành lại quyền sống cho mình, đêm 22 rạng 23-02-1969, đồng bào trong tại tập trung đã đấu tranh đòi Mỹ-ngụy trả lại tự do được trở về làng cũ làm ăn. Liền lúc đó, Mỹ - ngụy tập trung nhiều máy bay, đại bác, ném bom, bắn phá xối xả vào khu tập trung Kon Hơ Ring. Tiếp đó, bộ binh của chúng có xe bọc thép càn vào khu tập trung bắn giết bừa bãi. Sau gần 4 tiếng đồng hồ, chúng đã tàn sát 350 người và làm bị thương hàng trăm người khác. Ngày 25-02-1969: Tỉnh ủy ra Chỉ thị về huy động cán bộ, nhân viên phục vụ tiền tuyến Ngày 25-02-1969, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 11/VP về huy động cán bộ, nhân viên đi phục vụ tiền Tuyến. Nội dung: - Huy động khoảng 40-50% tổng số cán bộ, công nhân viên các cơ quan tỉnh còn ở hậu phương đi dân công phục vụ tiền tuyến. - Huy động 70-80% cán bộ, công nhân viên các bệnh xá, trường chính trị, văn hóa, trại cải tạo, trại tù binh, trại an dưỡng, trại thương binh, đội văn công đi dân công phục vụ tiền tuyến trong thời gian trên 1 tháng. Tập trung trước đúng ngày 4-3-1969 để lên đường. - Cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm sắp xếp tổ chức, bố trí cán bộ cùng đi phụ trách và làm nhiệm vụ vận chuyển, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác trong thời gian phục vụ. Tháng 02-1971: Tỉnh ủy Kon Tum tổ chức Hội nghị Cuối năm 1970, đầu năm 1971 trên địa bàn tỉnh Kon Tum, địch tăng cường đánh phá ác liệt vùng giải phóng, mở nhiều cuộc càn quét lớn, đồng thời tung biệt kích, thám báo chống phá ta. Tại các vùng phía sau lưng địch, chúng tăng cường kìm kẹp, đàn áp khủng bố dân, khủng bố phong trào cách mạng... gây cho ta rất nhiều khó khăn, tổn thất. Trước tình hình đó, tháng 02-1971 Tỉnh uỷ Kon Tum đã tiến hành Hội nghị quán triệt, chỉ rõ nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh trong giai đoạn mới của năm 1971 là: "Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, ra sức và khẩn trương quyết tâm xây dựng thực lực bên trong, đưa bạo lực quần chúng nổi dậy bằng ba mũi giáp công, diệt ác, phá kèm, mở rộng nông thôn, Đồng thời nhanh chóng xây dựng và mở rộng những bàn đạp ở vùng ven; ra sức mở cơ sở xây dựng thực lực trong nội ô, tạo điều kiện làm chủ lõm bên trong, phát triển mạnh ưu thế tấn công địch, quyết tâm giành thắng lợi to lớn hơn." Ngày 06-02-1972: Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum ban hành Quyết nghị thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực S và Quyết nghị thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực Z Ngày 06-02-1972, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết nghị số 18/QN thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực S và Quyết nghị số 19/QN về thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực Z. - Đảng ủy khu vực S được thành lập gồm 5 đồng chí do đồng chí Trần Thanh Dân-Uỷ viên Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư H5 làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Đinh Tú- Phó Bí thư H5 làm Phó Bí thư Đảng ủy và 3 đồng chí Tỉnh ủy viên khác làm Uỷ viên Đảng ủy. Đảng ủy có nhiệm vụ quan hệ với cơ quan chỉ huy chủ lực để phối hợp hiệp đồng chặt chẽ trong vận dụng phương châm "3 mũi giáp công, 3 quả đấm" trên các vùng, tấn công với nổi dậy, tấn công với xây dựng, phát triển thế lực mới tạo thuận lợi để giành thắng lợi ngày càng cao. Đảng ủy trực tiếp chỉ đạo Ban cán sự H5, xâu đầu mối chỉ huy các cánh hoạt động khớp với kế hoạch đã định và phối hợp hiệp đồng thống nhất chỉ huy, lãnh đạo các lực lượng chính trị, vũ trang địa phương cùng với quân đội chủ lực hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tấn công - nổi dậy và xây dựng theo phương hướng, ý đồ quyết tâm của Đảng. Ban cán sự H5 có trách nhiệm cung cấp mọi yêu cầu, hoàn thành tốt công tác chuẩn bị và tạo mọi điều kiện thuận lợi góp phần tích cực nhất để cùng Đảng ủy khu vực S hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Tỉnh ủy giao. - Đảng ủy khu vực Z gồm 5 đồng chí: Đồng chí Phạm Trọng (Nhớ)- Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Hữu Hành - Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng làm Phó Bí thư và các đồng chí: Đinh Văn Mai (Loan), A Xang, Nguyễn Bá Hội (Tụ)- Tỉnh ủy viên làm Uỷ viên Đảng ủy. Đảng ủy khu vực Z có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm, tra mọi mặt chuẩn bị của H80 theo phương án kế hoạch tấn công, nổi dậy và dây dựng khu Z đã được Thường vụ Tỉnh ủy xét duyệt. Trực tiếp chỉ đạo các Ban cán sự phía trước của H80 hoạt động khớp với kế hoạch đã quy định về phối hợp, hiệp đồng và thống nhất chỉ huy, lãnh đạo các lực lượng chính trị, vũ trang của địa phương hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tấn công, nổi dậy và xây dựng theo phương hướng, quyết tâm của Đảng. Huyện H80 có trách nhiệm cung cấp mọi yêu cầu và tạo mọi điều kiện thuận lợi, góp phần tích cực nhất để cùng Đảng ủy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Tỉnh ủy giao. Đảng ủy khu vực S và Đảng ủy khu vực Z đều chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy. Ngày 06-02-1972: Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum ban hành Quyết nghị thành lập Chi bộ đặc biệt thuộc Đảng ủy hoạt động H80 Để đảm bảo phục vụ thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong chiến dịch Xuân- Hè 1972, ngày 06-02-1972, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết nghị số 15/QN thành lập Chi bộ đặc biệt thuộc Đảng ủy hoạt động H80. Chi bộ này đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy hoạt động khu vực Z. Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định Chi ủy gồm 5 đồng chí: 01 đồng chí Bí thư, 01 Phó Bí thư và 3 đồng chí ủy viên. Nhiệm vụ chủ yếu của Chi bộ này là lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, tổ chức, bám chặt 7 yêu cầu nâng cao chất lượng Đảng viên, để xây dựng Đảng viên và quần chúng thuộc phạm vi chi bộ phụ trách, đảm bảo hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ công tác theo chức năng, trách nhiệm của từng người. Tất cả đảng viên trong các cơ quan tỉnh cử ra công tác tại đây phải có giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng của Đảng ủy cơ quan. Chi bộ này có trách nhiệm quản lý đảng viên về tư tưởng, công tác sinh hoạt cho đến khi kết thúc nhiệm vụ sẽ có quyết định mới. Ngày 07-02-1976: Cán bộ đồn 672 gặp, đấu tranh trực tiếp với Khơ me đỏ tại đồn X114 Ngày 4/1/1976, ta nhận được thư của Campuchia thông báo là đoàn đo đạc của họ đã đến tây sông Sa Thầy. Qua 3 ngày đo đạc cả hai bên đều xác định các vị trí quân Khơ me đỏ đang đóng đều nằm trên đất của xã Morai - huyện Sa Thầy. Ta đề nghị họ rút, nhưng quân Khơ me đỏ vẫn đóng trái phép. Ngày 7/2/1976, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 và Phó Chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai - KonTum cử 3 cán bộ của Đồn 672 và Đại đội 3 đến gặp lực lượng Khơ me đỏ tại kho X114. Tại cuộc gặp, đồng chí Thành đại diện đoàn cán bộ của ta thông báo rõ: - Campuchia đang đóng quân trái phép trên lãnh thổ Việt Nam . - Đại diện Campuchia công nhận. - Ta yêu cầu đại điện Campuchia cho biết hiện nay họ còn đóng trái phép mấy điểm ? - Họ trả lời còn 2 điểm (Thực tế còn 6 điểm). - Ta yêu cầu Campuchia gỡ toàn bộ chông mìn đã cài, cắm trên đất Việt Nam và đến ngày 09/02/1976, phải rút hết, sau ngày đó ta không chịu trách nhiệm. - Đại diện Campuchia nói còn phải báo cáo trên, khi nào đo đạc xong mới rút. - Ta cũng thông báo: Bộ đội Việt Nam sẽ diễn tập ở tây sông Sa Thầy. * Sau lần gặp đó, các lực lượng làm nhiệm vụ trên khu vực tây sông Sa Thầy liên tục tuần tra. Ngày 12/2/1976, đồng chí Him, cán bộ Đại đội 3 cơ động công an nhân dân vũ trang phụ trách 18 đồng chí cùng Trung đoàn 95 đi tuần đến tọa độ 60542 gặp quân đội Khơ me đỏ đang hành quân trên đất ta. 2 bên nổ súng, ta an toàn, quân Khơ me đỏ chạy về bên kia biên giới. Ngày 14-02-1976: Ban Chỉ huy công an nhân dân vũ trang tỉnh tổ chức lực lượng chốt tại kho X114 Trước sức ép liên tục của ta, trước những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm chủ quyền của Việt Nam, ngày 14/2/1976, Khơ me đỏ rút quân khỏi tây sông Sa Thầy tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Thực hiện chỉ thị của tiền phương Quân khu V, các lực lượng vũ trang ta bố trí thành 3 tuyến: “Tuyến sát biên là các đồn biên phòng của công an nhân dân vũ trang cộng với các chốt của du kích xã Morai và Bờ Y, tuyến 2 là khu vực kiếm soát của bộ đội huyện Đăk Tô, tuyến 3 là khu vực tỉnh đội và Trung đoàn 95 phụ trách”. Thực hiện nhiệm vụ Quân khu V giao, Ban Chỉ huy công an nhân dân vũ trang tỉnh tổ chức lực lượng chốt tại kho X114. Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang tỉnh phối hợp với cán bộ kỹ thuật của Quân khu V xác định chính xác vị trí các đồn trên tuyến biên giới, chỉ đạo xây dựng kế hoạch chiến đấu bảo vệ đồn, tăng cường xây dựng công sự trận địa, hiệp đồng với các đơn vị quân đội giáo dục tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, quán triệt chỉ thị của Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang “Không được đưa quân và bắn sang đất đất Campuchia, nhưng kiên quyết trừng trị quân Khơ me đỏ vi phạm chủ quyền Việt Nam”. Từ 20-02 đến 06-3- 1976: Lực lượng Công an nhân dân vũ trang đánh lùi nhiều đợt tập kích của khơ me đỏ tại khu vực sông Sa Thầỳ Mặc dù đã rút quân về bên kia biên giới, nhưng phía Campuchia không thực hiện cam kết mà tiếp tục cho lực lượng sang đất ta phục kích, tập kích. Ngày 19/2 họ dùng súng cối bắn bị thương 1 chiến sĩ Trung đoàn 95. Ngày 20/2, Khơ me đỏ sục vào chốt của Đại đội 10 - Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 95 ở điểm cao 338. 2 ngày sau, Khơ me đỏ tiếp tục sục vào chốt Đại đội 10, bị ta nổ súng trừng trị phải tháo chạy. Ngày 29/2, quân Khơ me đỏ lại vượt biên trái phép, Đại đội 10 ta nổ súng, địch tháo chạy. Cùng ngày, Khơ me đỏ vượt biên cắt dây điện thoại của Trung đoàn 95 và phục kích bắn 2 chiến sĩ thông tin đang sửa đường dây điện thoại. Chiều cùng ngày, 2 đồng chí lái xe của Công an nhân dân vũ trang từ phía Hồ Le đi ra ngã ba đường ống bị Khơ me đỏ phục kích bắn bị thương 1 lái xe và đốt xe. Ngày 6/3/1976, một tổ trinh sát Khơ me đỏ mò vào chốt của Đại đội 3 tại tọa độ 58568, ta nổ súng diệt 2 tên, thu 2 AK, 1 ba lô, 1 thước đo đạc pháo binh. Tháng 02- 1976: Huyện Đăk Tô đưa 5 làng sinh sống tại sát đường biên giới Li Ang - Giang Dơn về sống dọc đường 18 Cuối tháng 2, đầu tháng 3/1976, vì tình hữu nghị và để giảm bớt căng thẳng trong quan hệ biên giới, được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ đạo huyện Đăk Tô và các lực lượng liên quan vận động đưa 5 làng của xã Bờ Y đang sinh sống tại sát đường biên giới Li Ang - Giang Dơn về sống dọc đường 18 (Đăk Mế, Măng Tôn, Ta Ka, Đăk Prang, Yec). Được sự đồng ý của Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang và Bộ Tư lệnh Quân khu V, Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang tỉnh quyết định dời Đồn 671 vào sâu trong nội địa. Vừa di chuyển đồn đến vị trí mới vừa tuần tra bảo vệ đoạn biên giới được phân công, cán bộ chiến sĩ Đồn 671 góp phần bảo vệ và giúp đỡ dân 5 làng của xã Bờ Y về vị trí ở mới an toàn. Giữa tháng 02-1977: Đoàn khảo sát liên hợp của Trung ương và tỉnh Gia Lai - Kon Tum tiến hành khảo sát đơn phương lần thứ 2 Căn cứ vào kết quả hoạch định đường biên giới, Ban chỉ huy chỉ đạo các Đồn trên toàn tuyến tăng cường tuần tra bảo vệ dấu hiệu đường biên giới mới, tổ chức lực lượng phát quang tuyến, mỗi Đồn chuẩn bị 1 Tiểu đội tham gia khảo sát đơn phương lần 2 . So với lần khảo sát đơn phương thứ 1, về cơ bản, đường biên giới mới không thay đổi (chỉ có đoạn đi qua xã Bờ Y có 4 km cần phải xác định lại). Quá trình khảo sát đơn phương lần 2, Ban chỉ huy cũng đồng thời khảo sát luôn vị trí đóng đồn mới, báo cáo xin ý kiến Bộ Tư lệnh, chuẩn bị sẵn sàng khi hiệp định được kí kết di chuyển ngay các đồn của ta về đông đường biên giới mới . Ngày 01-02-1985: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định chia tách một số xã của tỉnh Kon Tum Ngày 01-02-1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 26-HĐBT chia xã Đăk Pne thuộc huyện Kon Plông thành 2 xã: Đăk Pne và Kon Pne; chia xã Đăk La thuộc thị xã Kon Tum thành 2 xã: Đăk La và Hà Mòn. Ngày 05-02-1998 : Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 15-CT/TU về công tác tăng cường lãnh đạo và đổi mới nội dung tuyên truyền miệng. Chỉ thị nêu rõ: + Công tác tuyên truyền miệng là trách nhiệm của toàn Đảng bộ. Trước hết là đồng chí cấp ủy viên trực tiếp làm công tác tuyên truyền, cán bộ, đảng viên toàn tỉnh đến cơ sở phải tham gia làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. + Xây dựng, củng cố lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên từ tỉnh đến cơ sở có đủ số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng, chú trọng xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở. Cấp tỉnh có từ 20-25 báo cáo viên, cấp huyện có từ 10-15 BCV, Đảng ủy trực thuộc từ 5-10 BCV, cấp xã từ 1-2 BCV, mỗi chi bộ có từ 1-2 tuyên truyền viên. + Ban tuyên giáo cấp ủy trực tiếp lãnh đạo về nội dung tuyên truyền miệng và quản lý đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; sớm hình thành trung tâm thông tin công tác tư tưởng (cấp phòng) trực thuộc Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Ngày 11-02-2003: Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 05 phê duyệt phương án giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ Mục tiêu của phương án này là tạo lập quỹ đất kèm theo các giải pháp cụ thể để giải quyết cho 13.638 hộ chưa có, chưa đủ đất sản xuất và 5.462 hộ chưa có đất ở (chủ yếu là do nhu cầu tách hộ) là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ nhằm ổn định một bước đất sản xuất và ổn định đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Tổng diện tích đất ở và đất sản xuất cần giải quyết là 9.197 ha, tổng quỹ đất đưa vào khai hoang là 11.851ha với tổng vốn đầu tư là 50.397,3 triệu đồng, thời hạn đầu tư trong 3 năm (2002-2004). Nguyên tắc giải quyết là tuân thủ theo Quyết định 132 của Chính phủ. Ngày 16-02-2004: Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh tổ chức lễ khởi công xây dựng công trình đường giao thông nối quốc lộ 14 (nay là đường Hồ Chí Minh ) Về dự lễ khởi công có đồng chí Y Vêng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Lê Diễn, Phó Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí trong Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh; các đồng chí nguyên UVTW Đảng Trần Kiên, Huỳnh Văn Cần, Sô Lây Tăng; các sở, ban, ngành của tỉnh; đại diện lãnh đạo huyện Đăk Glei và đông đảo nhân dân trong vùng; đại diện Bộ Tư lệnh bộ đội Biên phòng. Công trình đường giao thông nối quốc lộ 14 có cung nối xã Đăk Man với xã Đăk Blô và điểm cuối là cột biên giới T20 với chiều dài 21 km. Đây là công trình nâng cấp và làm mới tuyến giao thông có ý nghĩa chiến lược lâu dài về bảo vệ an ninh-quốc phòng và phát triển kinh tế-xã hội của 2 xã Đăk Man và Đăk Blô. Ngày 01-02-2008: Tỉnh ủy-HĐND-UBND-UBMTTQVN tỉnh tổ chức lễ kỷ niệm 95 năm thành lập tỉnh Kon Tum (09/02/1913- 09/02/2008) Buổi lễ được tổ chức trọng thể tại Quảng trường 16-3 (thành phố Kon Tum). Tại buổi lễ, đồng chí Hà Ban, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo kỷ niệm 95 năm thành lập tỉnh đọc diễn văn Chào mừng 95 năm thành lập tỉnh ...Nhân dịp này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum vinh dự đón nhận Huân chương độc lập Hạng Nhất, phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng về những thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc...Sau phần phát biểu của đại biểu Trung ương, phát biểu cảm tưởng của già làng và đại diện thanh niên tiêu biểu, là chương trình diễu hành xe hoa của các khối, ngành, địa phương qua các trục đường chính của thị xã Kon Tum. Ngày 22-02-2008: UBND tỉnh Kon Tum ban hành quyết định số 07/2008/ QĐ-UBND quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với các xã trọng điểm đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2008-2010. Các quy định cụ thể là: Huy động các nguồn lực cùng với Chương trình 135 giai đoạn II đảm bảo đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng mỗi xã ít nhất 1,4 tỷ đồng/xã/năm. Bù, hỗ trợ lãi suất cho hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số vay vốn theo dự án: Ngân sách tỉnh cấp bù lãi suất 0,3 % tháng cho hộ nghèo là đồng bào DTTS ở 14 xã trọng điểm khó khăn khi có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh. Số tiền vay được cấp bù, tối đa 5 triệu đồng/ hộ. Cơ chế đặc thù để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư sản xuất kinh doanh tại các xã trọng điểm khó khăn: Thực hiện miễn thuế, các ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, thuê đất, thuê mặt nước với mức tối đa theo các quy định của pháp luật hiện hành. Ngân sách tỉnh hỗ trợ thêm tiền cho người đi học nghề, vừa học vừa làm và nhận người nghèo vào làm việc ổn định tại doanh nghiệp tối thiểu là 12 tháng với mức hỗ trợ 200.000đ/ người. Hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công, dịch vụ "đầu vào", "đầu ra" cho hộ nông dân: Ngân sách tỉnh hàng năm ưu tiên bố trí kinh phí khuyến công, khuyến nông để thực hiện hỗ trợ khuyến công cho đồng bào như xây dựng làng nghề, đào tạo nghề; xây dựng các mô hình khuyến nông như tăng vụ trên đất ruộng, khuyến trồng cao su trên đất trồng mỳ, trồng cây cà phê, khuyến lâm dưới tán rừng... Ngày 11- 02- 2009: UBND tỉnh Kon Tum ban hành Đề án chính sách hỗ trợ kinh phí để phát triển cao su đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo trồng cao su trong vùng quy hoạch phát triển cao su (ban hành kèm theo Quyết định số 14/2009 /QĐ-UBND) Chính sách hỗ trợ kinh phí phát triển cao su tiểu điền nhằm tạo điều kiện và khuyến khích hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo mạnh dạn đầu tư phát triển cao su, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Thông qua chính sách hỗ trợ, còn giúp người dân nắm bắt, ứng dụng kỹ thuật trồng và chăm sóc cao su trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng vườn cây trong thời kỳ khai thác, ổn định thu nhập, thực hiện xoá đói, giảm nghèo một cách bền vững. Đối tượng hưởng lợi là hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; số hộ hưởng lợi là 9.090 hộ. Ngày 13-02- 2009: UBND tỉnh Kon Tum ban hành Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND về việc triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ cán bộ tăng cường, luân chuyển, thu hút trí thức trẻ, cán bộ khuyến nông, khuyến lâm về công tác tại 14 xã trọng điểm đặc biệt khó khăn Gồm các xã: Ngọc Tem, Đắk Nên, Đắk Ring, Măng Bút, Đắk Tăng (huyện Kon Plông); xã Đắk Kôi, Đắk Pne (huyện Kon Rẫy); xã Ngọc Yêu, Ngọc Lây, Đắk Na (huyện Tu Mơ Rông); xã Mường Hoong, Ngọc Linh, Xốp, Đắk Blô (huyện Đắk Glei). Đối tượng tăng cường, luân chuyển, thu hút là cán bộ thuộc các phòng, ban của huyện, trí thức trẻ có trình độ tốt nghiệp đại học chính quy chuyên ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế nông lâm, luật, hành chính. Thời gian thực hiện là 5 năm. Ngày 01-02-2013: Tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập tỉnh Kon Tum và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh Tối ngày 01-02-2013, tại Sân vận động tỉnh Kon Tum, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh Kon Tum đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập tỉnh (09/02/1913-09/02/2013) và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh. Về dự Lễ kỷ niệm có đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Phạm Thế Duyệt, nguyên Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN; đồng chí Phan Diễn, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Trương Thị Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch Nước; đồng chí Ksor Phước. Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên UBTV Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc của Quốc hội; đồng chí Vũ Trọn Kim, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQVN; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; đại biểu các tỉnh bạn…… Tại buổi Lễ, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Lê Hồng Anh đã trao Huân chương Hồ Chí Minh, ghi nhận những nỗ lực cố gắng của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Kon Tum, vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quóc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Phát biểu tại buổi Lễ, đồng chí Lê Hồng Anh nhấn mạnh: kỷ niệm 100 năm ngày thành lập tỉnh Kon Tum là dịp để mỗi người dân Kon Tum ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của tỉnh, nhân lên lòng tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất trong chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao động, một lòng đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn, tiếp tục phấn đấu giành nhiều thành tựu to lớn hơn trong giai đoạn mới…. Ngày 26-02-2013: đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ thăm và làm việc tại tỉnh Kon Tum Cùng đi với Phó Thủ tướng Cính phủ có lãnh đạo các bộ: Công an Ngoại giao, Công thương, Giao thông Vận tải, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Dân tộc, Văn phòng Chính phủ; Ban chỉ đạo Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam…. Tiếp và làm việc với Đoàn có các đồng chí: Hà Ban-Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Y Mửi-Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh; Nguyễn Văn Hùng-Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Đào Xuân Quý-Phó Bí thư Tỉnh ủy; Thường trực HĐND-UBND-UBMTTQVN tỉnh và lãnh đạo một số sở, ban, ngành của tỉnh. Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Văn Hùng đã báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KTXH-QPAN năm 2012; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2013;đồng thời đề xuất với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương như: điều chỉnh lại địa giới hành chính giữa 2 tỉnh Kon Tum và Gia Lai; sớm ban hành nghị quyết chia tách xã Mô Rai, huyện Sa Thầy để hình thành các đơn vị hành chính cấp xã tại khu vực phía nam huyện Sa Thầy, tiến tới thành lập huyện mới vào năm 2015 theo Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh khóa XIV; ưu tiên nguồn đầu tư Cửa khẩu quốc tế Bờ Y; xem xét, trình Quốc hội bổ sung các dự án nâng cấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh từ 400 giường bệnh lên 500 giường bệnh; nang cấp Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Hồi từ 100 giường bệnh lên 250 giường bệnh; bổ sung vốn kế hoạch năm 2013 cho tỉnh để tiếp tục thực hiện Dự án đầu tư công trình kè chống lũ lụt, sạt lở các làng đồng bào DTTS dọc sông Đăk Bla (TP Kon Tum); bố trí nguồn vốn đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng, dự án phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh đã được Chính phủ cho chủ trương đầu tư trong thời gian qua… Tại buổi làm việc, lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương đã tham gia ý kiến đối với tỉnh Kon Tum về kết quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại trong những năm qua cũng như một số nhiệm vụ của tỉnh trong thời gian đến; đồng thời giải đáp một số kiến nghị của tỉnh… Phát biểu tại buổi làm việc, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã biểu dương những kết quả đạt được của tỉnh Kon Tum trong năm 2012, đặc biệt là việc thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, công tac an ninh, quốc phòng, chủ quyền biên giới được đảm bảo ổn định, không để xảy ra điểm nóng về an ninh, chính trị trên địa bàn. Đồng thời Phó Thủ tướng cũng cho rằng kinh tế Kon Tum có tốc độ tăng trưởng khá nhưng chưa bền vững, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế; công tác giảm nghèo tuy đã thực hiện tốt nhưng tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với các tỉnh khác trong khu vực; việc quy hoạch xây dựng nông thôn mới triển khai còn chậm; tình trạng người dân thiếu đất ở, đất sản xuất vẫn còn; tình trạng an ninh biên giới vẫn còn nhiều tiềm ẩn phức tạp,… Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Đảng bộ, chính quyền tỉnh Kon Tum cần có quyết tâm chính trị cao hơn nữa trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong thời gian tới: phát huy thế mạnh của tỉnh thực hiện tốt công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, mở rộng diện tích trồng cây cao su, cà phê, sâm Ngọc Linh, nuôi cá nước lạnh; chú trọng công nghiệp chế biến và tìm đầu ra cho sản phẩm; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phối hợp với các tỉnh của Lào và Campuchia để đẩy mạnh công tác phân giới cắm mốc; thực hiện tốt công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng trên tuyến biên giới,… Phó Thủ tướng giao các bộ, ngành Trung ương liên quan nghiên cứu các kiến nghị của tỉnh Kon Tum trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. II. Những sự kiện lịch sử tháng 3: Ngày 28-3-1917: Nhập tổng Tân Phong và tổng An Khê vào tỉnh Kon Tum Ngày 28-3-1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, để sáp nhập vào tỉnh Kon Tum. Tháng 3-1931: Địch xây thêm nhà lao Kon Tum (Lao ngoài) Để chuẩn bị đưa tù nhân từ công trường làm đường Đăk Pao, Đăk Pét về tạm giam ở thị xã Kon Tum khi mùa mưa đến, tháng 3-1931, tên Công sứ Kon Tum đã ra lệnh cho gấp rút làm thêm một nhà lao mới: gọi là Lao ngoài (hay lao cầu mới, lao kẽm, lao sắt). Ngày 01-3-1933: Tăng phiên họp chợ Kon Tum một ngày hai buổi Chợ Kon Tum là nơi trung tâm trao đổi thương mại lớn nhất của thị xã Kon Tum lúc bấy giờ. Chợ có hai nhà dài làm bằng ngói. Trước đây, chợ chỉ tổ chức họp một ngày 1 buổi từ 6 giờ sáng đến 7 giờ sáng thì tan. Về sau, do nhu cầu trao đổi mua bán ngày càng phát triển, số lượng người đến chợ ngày càng đông. Do đó, từ ngày 01-3-1933, chính quyền đã quyết định tăng phiên họp chợ lên một ngày 2 buổi. Buổi sáng từ 6 giờ đến 8 giờ; buổi chiều từ 14 giờ đến 16 giờ. Tháng 3- 1933: Người kinh ở Kon Tum được phép nấu rượu Trước đây, với chính sách độc quyền, chính quyền cai trị cấm nhân dân tự do nấu, bán rượu. Song, đối với Kon Tum vì điều kiện đường xá xa xôi, chính quyền khó kiểm soát, nên việc nấu rượu và bán rượu lậu vẫn được tổ chức trong các làng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, để tăng cường chính sách chống thất thoát thuế, từ đầu tháng 3-1933, chính quyền cai trị quyết định cho người Kinh ở Kon Tum được phép nấu rượu bán; đồng thời mỗi hộ kinh doanh nấu rượu phải nộp thuế thương chính với mức 0,5 xu/lít rượu. Từ tháng 3 đến tháng 8-1933: Thử nghiệm về nguyên nhân gây bệnh sốt rét ở thị xã Kon Tum Một trong những dịch bệnh thường xảy ra ở Kon Tum là sốt rét. Để tìm hiểu rõ nguyên nhân gây bệnh, từ tháng 02 đến tháng 8-1933 các thầy thuốc ở Viện Pasteur Sài Gòn đã tiến hành cuộc thử nghiệm như sau: Lấy 4 làng của thị xã Kon Tum chia làm 21 khu. Mỗi khu lấy trẻ em từ 2 đến 12 tuổi cho thử máu, tính theo tỷ lệ phần trăm số trẻ em bị bụng lớn, đau trái nước (do sốt rét gây ra); đồng thời cho đào rãnh, vét mương thoát nước để trừ muỗi. Cứ sau 3 tháng lại tái khám trẻ em một lần. Sau hai lần thực hiện liên tiếp từ tháng 3 đến tháng 5-1933 và từ tháng 5 đến tháng 8-1933, kết quả trong 21 khu, có những khu giảm 56%, 42%,40%. Tháng 3-1940: Một số đảng viên Cộng sản đến Kon Tum gây dựng phong trào cách mạng Tháng 3-1940, một số đảng viên từ Sài Gòn, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Đà Nằng, Quảng Ngãi...lên ẩn náu tại Kon Tum, tạm lánh sự truy lùng của địch. Tại đây, họ hình thành những nhóm Cộng sản để thống nhất ý chí hành động tiếp tục hoạt động cách mạng. Nhóm của đồng chí Trần Ren ở Sài Gòn và Trần Thị Út ở Thừa Thiên Huế đã tổ chức được Hội cứu tế đỏ, Hội ái hữu, Hội học chữ quốc ngữ, Hội bóng đá công nhân ở đồn điền Bàu Cạn,.... Tuy nhiên, các tổ chức trên vừa mới được gây dựng, đang trong quá trình củng cố và phát triển đã bị địch khủng bố, nên chưa gây được ảnh hưởng lớn trong quần chúng nhân dân. Song đã khơi dậy được bầu không khí có phần trầm lắng ở Kon Tum trong một thời gian dài không có sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 09-3-1945: Nhật đảo chính Pháp ở Kon Tum Nằm trong âm mưu thôn tính Pháp, độc quyền thống trị toàn cõi Đông Dương, ngày 09-3-1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ Pháp và thiết lập chính quyền cai trị ở Kon Tum. Sau khi truất quyền Pháp, phát xít Nhật tuyên bố Đông Dương độc lập, mít tinh, hô hào quần chúng tham gia biểu tình, tổ chức nhiều cuộc liên hoan đoàn kết Nhật - Việt, Kinh - Thượng, hoan nghênh độc lập, ca tụng công ơn Nhật, kêu gọi toàn dân ủng hộ chính quyền, tiêu diệt tàn quân Pháp. Để lừa gạt quần chúng, phát xít Nhật tiến hành thiết lập bộ máy cai trị từ tỉnh đến làng, xã, đồng thời triệt để sử dụng các viên chức đã từng làm việc cho Pháp; thay đổi tên gọi các sắc lính khố xanh, khố đỏ bằng "Bảo an binh"; tu bổ các hệ thống kho tàng, lương thực, vũ khí, căn cứ quân sự do Pháp xây dựng; đưa người Thượng hoặc người Kinh lên thay thế các chức chỉ huy cuả người Pháp và phân đi phòng ngự các vị trí đã chiếm đóng trước đây để thực hiện quyền kiểm soát.. Bên cạnh đó, chúng thay đổi các chế độ sưu thuế, tạp dịch, phu phen của thực dân Pháp trước đây bằng một hình thức mới "Bảo vệ độc lập, kiến thiết quốc gia" ra sức kêu gọi, bắt ép nhân dân phải đóng góp một cách triệt để. Với những mưu mô thâm độc và lừa mị trên, giặc Nhật bước đầu đã thu được một số kết quả, song nhân dân các dân tộc Kon Tum đã sớm thức tỉnh, sớm nhận ra đựợc bộ mặt xảo trá của kẻ thù và tìm cách đấu tranh phản kháng đòi quyền sống, quyền tự do cho quê hương, dân tộc. Tháng 3-1945: Kon Tum thành lập tổ chức thanh niên tiên tiến Tổ chức Thanh niên tiên tiến ra đời ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 09-3-1945) do một số thanh niên có tinh thần yêu nước trong tầng lớp tiểu tư sản gồm giáo viên, viên chức nhỏ đứng ra thành lập. Chủ trương của tổ chức thanh niên tiến bộ là vận động quần chúng tham gia các hoạt động xã hội như bài trừ nạn cờ bạc, chống trộm cắp, vận động cứu tế cho đồng bào Bắc bộ...Tuy nhiên, do điều kiện thời cuộc lúc bấy giờ nên hoạt động của tổ chức này chưa thật sôi nổi, tầm ảnh hưởng chưa rộng mới chỉ thu hút được một số lực lượng thanh niên ở Thị xã và vùng ven tham gia. Tháng 3-1945: Nhân dân Kon Tum đấu tranh đòi thả tự do cho tù chính trị ở Đăk Tô Sau khi Nhật đảo chính Pháp, lợi dụng trong lúc chính quyền tay sai Nhật đang thực hiện chính sách mị dân hòa bình, dân chủ giả hiệu nhằm xoa dịu, trấn an tinh thần trong nhân dân, một số viên chức tiến bộ cùng với đồng bào các dân tộc Kon Tum đã gây áp lực yêu cầu Tỉnh trưởng Hà Ngại phải thả tự do cho tù chính trị còn bị giam ở Đăk Tô. Trong tình thế đó, buộc chính quyền tay sai Nhật phải chấp thuận theo yêu cầu. 72 tù chính trị bị giam cầm ở Đăk Tô được thả tự do. Nhân dân Kon Tum đã tổ chức đón tù chính trị trong niềm vui hân hoan, đầm ấm. Tháng 3-1946: Kon Tum củng cố, kiện toàn Ban chấp hành Tỉnh ủy lâm thời Sau khi thành lập Tỉnh ủy lâm thời (tháng 02-1946), đồng chí Trần Lung-Bí Thư Tỉnh ủy lâm thời được Xứ ủy triệu tập về họp và được phân công ở lại Xứ ủy công tác. Đến tháng 3-1946, Xứ ủy tiếp tục cử đồng chí Võ Thúc Đồng lên thay đồng chí Trần Lung làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Trọng Ba được chỉ định bổ sung vào Tỉnh ủy. Ban chấp hành Tỉnh ủy lâm thời phân công nhiệm vụ như sau: 1. Đồng chí Võ Thúc Đồng: Bí thư, phụ trách chung; 2. Đồng chí Nguyễn Trọng Ba: Tỉnh ủy viên, phụ trách công tác chính quyền; 3. Đồng chí Võ Thị Hồng Sâm: Tỉnh ủy viên, phụ trách thường trực Tỉnh ủy; 4. Đồng chí Lê Văn Đức: Tỉnh ủy viên, phụ trách công tác quân sự. 5. Đồng chí Lê Tự Thắng: Tỉnh ủy viên, phụ trách công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Tháng 3-1946: Kon Tum bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và bầu Uỷ ban hành chính tỉnh Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tháng 3-1946, nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân tỉnh bầu được 20 đại biểu, trong đó có 13 đại biểu là người dân tộc thiểu số. Hội đồng nhân dân các cấp khóa đầu tiên đã bầu ra Ủy ban Hành chính thay thế cho các Ủy ban cách mạng lâm thời. Theo đó, Ủy ban Hành chính tỉnh được bầu lại gồm 11 người. Ông Nguyễn Hữu Phú được bầu làm Chủ tịch; ông Tôn Thất Hy làm Phó chủ tịch. Cuối tháng 3-1946: Thành lập Ban vận động quốc dân thiểu số Tây Nam Trung bộ Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ được thiết lập trên toàn quốc. Tuy nhiên ở vùng Thượng du, vấn đề người Thượng (đồng bào dân tộc thiểu số) thì chưa có một quan niệm rõ ràng. Ủy ban Hành chính Trung Trung bộ giao hẳn cho Ủy ban Hành chính các tỉnh Tây Nguyên tự xoay xở trong quá trình điều hành. Đến tháng 3-1946, đất đai thuộc các tỉnh Tây Nguyên, Trung bộ bị thực dân Pháp chiếm hơn 1/2 (Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, 2/3 tỉnh Đăk Lăk). Đứng trước nguy cơ cả miền Nam Trung bộ rơi vào tay Pháp một khi toàn Tây Nguyên bị thất thủ, Ủy ban Hành chính Trung bộ nhận thấy sự cần thiết phải có một tổ chức lãnh đạo Ủy ban Hành chính các vùng đang trực tiếp chiến đấu (Buôn Hồ ở Đăk Lăk) và giúp cho Ủy ban Hành chính các tỉnh Kon Tum, Gia Lai chỉ đạo trong công tác Thượng du; đồng thời nhằm động viên nguồn nhân lực dồi dào của Tây Nguyên để giữ gìn lãnh thổ Tây Nguyên. Trước tình hình bức bách đó, cuối tháng 3-1946, Ủy ban Hành chính Trung bộ quyết định thành lập Ban vận động quốc dân thiểu số Tây Nam Trung bộ. Nhiệm vụ của Ban vận động quốc dân thiểu số Tây Nam Trung bộ được ủy nhiệm của Ủy ban Hành chính Trung bộ liên lạc với Ủy ban hành chính các tỉnh Tây Nguyên, giúp đỡ Ủy ban Hành chính các tỉnh xây dựng kế hoạch công tác, vận động đồng bào Thượng du tham gia xây dựng chính quyền trong giai đoạn mới và chuẩn bị tổ chức kháng chiến. Ngày 03-3-1948: Lực lượng dân quân du kích địa phương phối hợp với đại đội 201 đánh đột kích quân Pháp ở đồn Kon Plông Ngày 03-3-1948, lực lượng dân quân du kích Kon Plông phối hợp với đại đội 201 đánh đột kích vào đồn Kon Plông, uy hiếp địch. Trận đánh đã tạo khí thế cho phong trào kháng chiến địa phương phát triển. Tháng 3-1948: Thành lập Ban cán sự tỉnh Kon Tum Tháng 3-1948: Khu uỷ V quyết định thành lập Ban cán sự tỉnh Kon Tum. Thành phần gồm các đồng chí: Nguyễn Trọng Ba (Bí thư), Nguyễn Hữu Tiến (Phó Bí thư) và đồng chí Vân Sơn (ủy viên). Tháng 3-1948: Thành lập Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Kon Tum Thực hiện tinh thần Sắc lệnh số 91 của Chính phủ, tháng 3-1948, Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung bộ ra Nghị định số 54-KCMN/ND thành lập Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Kon Tum thay cho Phân số kháng chiến hành chính giải tán. Ủy ban này do ông Nay Derr - Giáo viên (người dân tộc Gia Rai) làm chủ tịch; các ông Nguyễn Hữu Tiến và Võ Bẩm[3] làm Ủy viên. Tháng 3-1948: Thành lập Ty công an Kon Tum Tháng 3-1948, Phân ban Kháng chiến Hành chính Tây Nguyên ra quyết định thành lập Ty Công an Kon Tum. Biên chế 50 người. Nhiệm vụ của Ty Công an ngoài việc bảo vệ các cơ quan chính quyền, còn trực tiếp tham gia trừ gian, diệt tề (vì trước đây do thiếu cơ quan phụ trách nên nhiệm vụ này do lực lượng bộ đội đảm trách), phối hợp với bộ đội xung phong tuyên truyền phát triển chính quyền ở những vùng địch tạm thời kiểm soát. Ngày 08-3-1949: Thực dân Pháp trả lại quyền quản lý hai miền Cao Nguyên Nam và Bắc cho chính quyền Nam triều Việc trao trả này được công nhận bằng thỏa hiệp ngày 08-3-1949 giữa Tổng Thống Cộng hòa Pháp kiêm Chủ tịch Liên hiệp Pháp với Bảo Đại. Tuy nhiên, người Pháp vẫn muốn bảo vệ quyền lợi của họ trên Cao Nguyên, nên trong thỏa hiệp đã cố tình nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa người kinh và người Thượng và yêu cầu Chính quyền Bảo Đại ban hành những quy chế đặc biệt cho đồng bào Thượng với sự thỏa thuận của Chính phủ Pháp. Ngày 29-3-1950: Lực lượng chủ lực Khu V phối hợp với bộ đội địa phương Kon Tum, Quảng Ngãi đánh chặn cuộc hành quân của Pháp xuống căn cứ Sơn Hà Nhằm mục đích đánh phá cơ sở ta, lấy lại tinh thần cho bọn Chí Xẻng phản động ở Sơn Hà (Quảng Ngãi), ngày 29/3/1950, quân Pháp tập trung lực lượng 4 đại đội gồm lính lê dương, lính ngụy huy động từ Sài Gòn, Nha Trang ra, 01 đại đội nhảy dù và 500 tên phản động địa phương từ đồn Kon Plông kéo xuống đánh căn cứ Sơn Hà. Nắm rõ âm mưu và hành động của địch, lực lượng bộ đội chủ lực Liên khu V gồm các tiểu đoàn 19, 79, 50 (Trung đoàn 210) phối hợp với lực lượng bộ đội địa phương, dân quân Kon Tum, Quảng Ngãi phục kích tiêu diệt 118 tên địch, thu 15 súng, 01 máy thu thanh, 01 con ngựa và nhiều đồ dùng khác, bắn cháy 01 máy bay vận tải (Đakôta). Địch thất bại, chia làm 2 ngả rút chạy bằng máy bay về Đà Nẵng và đường bộ về Kon Tum. Ngày 13-3-1950[4]: Thành lập tỉnh Gia-Kon Ngày 13-3-1950, Uỷ ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung bộ ra Nghị định sáp nhập hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai thành một đơn vị kháng chiến hành chính lấy tên là liên tỉnh Gia Lai-Kon Tum (gọi tắt là tỉnh Gia - Kon). Ranh giới của tỉnh Gia-Kon là ranh giới địa hạt của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai nhập lại. Các cấp chính quyền huyện và xã Kon Tum, Gia Lai được đặt dưới quyền điều hành trực tiếp của Uỷ ban Kháng chiến Hành chính liên tỉnh. Khi mới thành lập, tỉnh Gia-Kon chia địa bàn quản lý trong tỉnh thành 7 huyện (tương đương 7 khu). Phạm vi tỉnh Kon Tum (cũ) có 3 huyện: Đăk Glei (Khu 1), Đăk Tô (Khu 2), Kon Plông (Khu 3). Tháng 3- 1950: Thành lập Ban cán sự tỉnh Gia-Kon Để phù hợp với việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảng sau khi sáp nhập, tháng 3-1950, Liên Khu ủy V chỉ định Ban cán sự Đảng tỉnh Gia-Kon và phân công đồng chí đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ-Uỷ viên Liên Khu ủy làm Bí thư. Tháng 3-1951: Thực dân Pháp thành lập Quân khu Tây Nguyên Tháng 3-1951 thực dân Pháp tách Tây Nguyên ra khỏi vùng Nam Trung bộ, thành lập Quân khu Tây Nguyên trực thuộc Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tướng Le Koch được cử làm Tư lệnh Quân khu Tây Nguyên, trụ sở đặt tại Buôn Ma Thuột, dưới Quân khu có các tiểu khu quân sự: Tiểu khu Buôn Ma Thuột, tiểu khu Đồng Nai Thượng, tiểu khu Pleiku và biệt khu Kon Tum. Tháng 3-1952: Bộ tư lệnh Liên khu V ra Huấn lệnh cho lực lượng vũ trang Mặt trận Miền Tây Nội dung Huấn lệnh: Ra sức xây dựng vùng du kích, tiếp tục truy quét tàn quân địch ở Sơn Hà, sẵn sàng ứng phó khi địch đánh xuống tây Quảng Ngãi; kiên trì vận động các ổ vũ trang vùng Đông Bắc; xây dựng, củng cố cơ sở vùng tạm chiếm, chú trọng đông đường 14; chuẩn bị chiến trường hàng rào cứ điểm, tiêu diệt địch, bồi dưỡng sức ta...; nắm vững phương châm dân vận, ngụy vận, chiến tranh du kích, lấy dân vận làm chính. Bộ Tư lệnh Liên khu V còn nêu phương hướng công tác cho bốn huyện miền Tây Quảng Ngãi và ba nhiệm vụ cụ thể cho Mặt trận 30. Bộ Tư lệnh Liên khu V đã chia địa bàn Mặt trận thành 3 khu: Khu Bắc gồm Đăk Glei và Tây đường 14; khu Đông gồm Đăkt'ring, Đăkt'bay, xã Hiếu, Măng Cành, Đăk Long, Kon Praih, thị xã Kon Tum; khu miền Tây Quảng Ngãi gồm 4 huyện Ba Tơ, Minh Long, Trà Bồng, Sơn Hà. Trên cơ sở địa bàn được phân định, phân công các đoàn công tác đi xây dựng cơ sở có sự phối hợp của lực lượng vũ rang địa phương và bộ đội chủ lực Liên khu V. Huấn lệnh cũng khẳng định Mặt trận Miền Tây là địa bàn chiến lược quan trọng, là chiến trường chính của chiến dịch Xuân-Hè 1952 của bộ đội chủ lực. Từ ngày 29-3 đến 15-4-1952: Ban cán sự tỉnh Gia-Kon tổ chức Hội nghị cán bộ quân dân chính toàn tỉnh lần thứ hai Hội nghị đã tổng kết, đánh giá tình hình và âm mưu, hành động của địch, thắng lợi và khó khăn của ta trong hơn một năm, kể từ Hội nghị quân dân chính lần thứ nhất (tháng 10-1950). sau khi kiểm điểm đánh giá tình hình, Hội nghị xác định phương hướng,phương châm và nhiệm vụ lớn trong thời gian tới. Về phương châm: Nắm vững phương châm kiên trì vận động cách mạng, tích cực đẩy mạnh công tác củng cố cơ sở. Về nhiệm vụ: Củng cố hành lang bàn đạp, chú trọng vùng biên giới, mở rộng và bảo vệ căn cứ du kích, xây dựng cơ sở trong vùng tạm chiếm; ra sức ngụy vận, phá âm mưu vũ trang nhân dân, chống chính sách dồn dân của địch; tích cự đấu tranh kinh tế địch, xây dựng kinh tế ta; tuyên truyền tổ chức giáo dục chính trị cho nhân dân, củng cố khối đoàn kết chiến đấu; rèn luyện tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và bộ đội, then chốt là tư tưởng "trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh nhưng nhất định thắng lợi", quan điểm dân tộc bình đẳng. Ngày 11-3-1955: Bảo Đại phê chuẩn Đạo dụ hủy bỏ Hoàng triều Cương Thổ Ngày 11-3-1955, theo yêu cầu của Ngô Đình Diệm, Bảo Đại phê chuẩn Đạo dụ số 21: hủy bỏ Hoàng triều Cương Thổ, sát nhập các vùng Cao Nguyên miền Nam và miền Bắc vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam và đặt hoàn toàn thuộc quyền quản lý của Chính phủ Quốc gia. Về tổ chức hành chính: thành lập Tòa Đại biểu chính phủ thay thế cho Tòa khâm sứ. Về chính sách quản lý: + Không áp dụng quy chế riêng cho đồng bào Thượng (như Hoàng Triều Cương thổ). + Tiến hành di dân người Kinh từ đồng bằng lên để thành lập các dinh điền. + Phủ nhận quyền sở hữu đất đai của đồng bào Thượng. + Xóa bỏ việc điều hành các Tòa án theo phong tục Thượng Ngày 09-3-1960: Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ nhất Ngày 09-3-1960, tỉnh Kon Tum tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất tại núi Ngọc An - làng Mô Gia - huyện Đăk Tô. Tham dự đại hội có 33 đại biểu thay mặt 524 đảng viên và 82 chi bộ trong toàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Mô (Tư Khiêm) Khu uỷ viên, Bí thư Liên tỉnh 4 tham dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ đầu tiên gồm 13 đồng chí (9 chính thức, 4 dự khuyết), bầu ban thường vụ 4 đồng chí, do đồng chí Trần Kiên làm bí thư. Đại hội kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ và phong trào quần chúng từ 1954 đến 1960, đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhằm thực hiện Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, khẩn trương chuẩn bị chuyển phong trào lên thế tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ đại bộ phận nông thôn, xây dựng và củng cố căn cứ vững mạnh. Đại hội đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của Đảng bộ tỉnh Kon Tum, đánh dấu thắng lợi của ta trong việc giữ gìn và phát triển lực lượng, giữ vững và phát triển phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Tháng 3-1960: Thành lập Ban quân sự tỉnh (Tỉnh đội Kon Tum) Để chuẩn bị cho phong trào cách mạng trong giai đoạn mới, tháng 3-1960, Tỉnh uỷ Kon Tum quyết định thành lập Ban quân sự tỉnh (gọi tắt là Tỉnh đội), đồng chí Nguyễn Trọng Đàm được chỉ định làm Tỉnh đội trưởng, đồng chí Nguyễn Bá Trình làm Chính trị viên, đồng chí Lê Sỹ Quý làm tham mưu, đồng chí Nguyễn Sơn làm tác huấn. Dưới Ban quân sự tỉnh có các ban tham mưu giúp việc gồm Ban tham mưu, Ban chính trị, Ban hậu cần và một số đơn vị trực thuộc. Tháng 3-1960: Ban quân sự tỉnh tổ chức Hội nghị quân chính lần thứ nhất Sau khi được thành lập, tháng 3-1960, Ban quân sự tỉnh tiến hành tổ chức Hội nghị quân chính đầu tiên của tỉnh tại làng Buk Lan, xã Mường Hoong (H30). Hội nghị đã quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất, triển khai nhiệm vụ xây dựng lực lương vũ trang theo phương hướng: Số lượng đông, chất lượng mạnh, tỉnh có đại đội, huyện có trung đội bộ đội tập trung và thành lập các ban quân sự huyện. Ngày 30-3-1965: Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hoà ra Nghị định cải biến dinh điền Trị Đạo thành xã Tri Đạo Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hoà ra Nghị định số 381-BNV/NC/6 cải biến dinh điền Tri Đạo địa phương hoá ngày 03-01-1961 thành xã Tri Đạo, đặt thuộc tổng Hamong, quận Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Ngày 04-3-1967: Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị về việc chống phá âm mưu bầu cử xã, ấp của địch Theo kế hoạch của địch, chúng sẽ bầu cử nguỵ quyền xã ấp ở các vùng chúng bình định và kiểm soát vào tháng 4-1967 nhằm đặt lại bộ máy kìm kẹp của chúng ở xã, thôn, đánh bật ta ra khỏi vùng này và chuẩn bị cho cuộc bầu cử theo cái gọi là "Quốc hội lập pháp" của chúng. Để chống lại kế hoạch bầu cử của địch, Tỉnh uỷ đã ra chỉ thị số 7/ VP/CT ngày 04-3-1967, chỉ thị cho các cấp, các ngành, địa phương chống lại âm mưu của địch. Chỉ thị nêu rõ: " Kiên quyết bám sát quần chúng ở các vùng ta có cơ sở, giáo dục phát động quần chúng nhận rõ âm mưu của địch là tròng lại ách cai trị vào cổ đồng bào ta, cướp đoạt lại quyền lợi kinh tế, chính trị mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận đã giành được. Qua đó mà phát động vào các vùng còn bị địch kiểm soát, đoàn kết đấu tranh vạch trần, tẩy chay âm mưu này của địch, đòi dân sinh, dân chủ cho quần chúng. Bằng mọi cách phá cho được âm mưu địch, gây dư luận vạch trần tội ác bọn ác ôn, tay sai địch ở các thôn xã..." Chỉ thị nhấn mạnh :" ...Các lực lượng vũ trang, du kích, du kích bí mật, đội công tác phối hợp với quần chúng, kết hợp đợt hoạt động quân sự này mà diệt ác ôn, tay sai ở xã, thôn, phục kích đánh bọn địch...., quyết không cho chúng thực hiện. Mặt khác lãnh đạo quần chúng gạt bỏ bọn tay sai địch, mà đưa vào những người ta nắm được để tiến lên phá sạch chứ không dừng lại ở đó. Đây là cuộc đấu tranh quyết liệt để giành và giữ quyền làm chủ các vùng mới mở ra sống hợp pháp, đưa phong trào quần chúng đứng lên đấu tranh mạnh mẽ lật đổ bọn nguỵ quyền xã thôn. Các cấp uỷ cần tăng cường chỉ đạo phía trước, các lực lượng vũ trang, du kích, đội công tác đều xông ra phía trước, đánh địch kết hợp với diệt ác ôn, phá ấp diệt kèm, phá cuộc bầu cử này của địch. Ngày 24-3-1967: Tỉnh ủy Kon Tum ra Chỉ thị về việc ra sức chống phá âm mưu và hoạt động tâm lý chiến, chiêu hồi, chiêu hàng của địch Chỉ thị nêu rõ: 1. Các cấp các nghành, đoàn thể, các đơn vị phải nhận rõ âm mưu thủ đoạn này của địch. Trong quá trình chỉ đạo phải hết sức chú trọng đặt nó thành công tác quan trọng thường xuyên, phải có kế hoạch chủ động tấn công một cách sắc bén... 2. Trong cán bộ Đảng viên, lực lượng du kích phải tổ chức học tập chu đáo, lấy những luận điệu của địch khéo léo phân tích cho mọi người thấy rõ âm mưu thủ đoạn của chúng. Qua đó tự liên hệ kiểm điểm sâu xắc, xây dựng cho mọi người tự hào với vị trí chiến đấu của mình, thực hiện lời dạy của Hồ Chủ Tịch: " Trung với nước hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" mà xác định trách nhiệm của mình. 3. Ra sức củng cố các tờ tin, cải tiến tờ báo của tỉnh, ra tờ tin hàng kỳ. Biến mỗi cán bộ chiến sĩ thành cán bộ tuyên truyền, làm sao thâm nhập sâu rộng mọi chính sách của Đảng.... Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông hội phải tăng cường giáo dục hội viên, đoàn viên của mình.... 4. Tổ chức học tập thấu đáo các chính sách trấn áp phản cách mạng và chỉ thị 93 của trên về công tác này, để chấp hành việc bắt xét xử người cho đúng, tránh tình trạng vi phạm chính sách ... 5. Những truyền đơn sách báo của địch rải cần nhanh chống thu hồi và thủ tiêu ngay, tuyệt đối không giữ và truyền tay nhau xem..." Ngày 20-3-1970: Ban Tuyên huấn tỉnh ra Quyết nghị thành lập Phân hiệu II Bổ túc văn hóa Căn cứ tình hình thực tế công tác bổ túc văn hóa của tỉnh và yêu cầu, khả năng, đạo đức của cán bộ, Hội nghị công tác tuyên huấn toàn tỉnh tháng 9-1969 đã thống nhất thành lập phân hiệu II Bổ túc văn hóa của tỉnh. Ngày 20-3-1970, Ban Tuyên huấn tỉnh ra Quyết nghị số 03/TH thành lập Phân hiệu II Bổ túc văn hóa tỉnh. Phân hiệu II Bổ túc văn hóa là Trường bổ túc văn hóa cán bộ tại H29, do Ban Tuyên huấn tỉnh quản lý và chỉ đạo. Chỉ định các đồng chí Huỳnh Triều, Hồng Vệ, A Toàn vào Ban lãnh đạo. Đồng chí Huỳnh Triều phụ trách chung. Nhà trường có nhiệm vụ bổ túc văn hóa cho cán bộ H16, H29, H5, các cơ sở công doanh và bồi dưỡng giáo viên bình dân học vụ, dân lập thuộc các H trên. Ngày 25-3-1970: Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh ra Chỉ thị đẩy mạnh trồng mì ở vùng phía trước Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy về đẩy mạnh chỉ đạo sản xuất vùng phía trước, ngày 25-3-1970, Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 44 - VP về đẩy mạnh trồng mì ở vùng phía trước. Nội dung cơ bản của Chỉ thị: - Trong tuyên truyền vận động cách mạng đối với những quần chúng phía trước cần đặt công tác vận động sản xuất thành một nội dung lớn, thường xuyên để giáo dục quần chúng nông dân lao động. Nêu cao bản chất cần cù lao động của người nông dân. - Phải coi trọng các loại cây trồng nhưng trước mắt để đối phó với âm mưu địch và kịp thời chống đói, phục vụ nhiệm vụ cách mạng, phải tập trung cho đợt trồng mì là chủ yếu. Ngoài ra khuyến khích các loại cây khác như: lang, chuối nước, bắp, các loại đậu và rau phổ biến. - Biện pháp thực hiện: + Chuẩn bị về giống: Ban cán sự mỗi huyện giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ và đội công tác thấy được tầm quan trọng và có trách nhiệm tiếp tế giống cho quần chúng địa phương. Mỗi lần đi công tác mỗi người phải mang theo ít nhất 10 hom mì để giúp dân. Nếu những nơi có cơ sở rộng rãi thì tổ chức đưa ra trồng từng đợt 3000 đến 5000 gốc mì một lần đủ giống trồng kịp thời vụ. + Về thời gian: Cây mì phù hợp với thời tiết quanh năm, có thể trồng bất cứ thời gian nào. Nhưng thích hợp nhất là từ tháng 4 đến tháng 6 . + Về đất trồng: tận dụng hết rẫy cũ, nà, vườn ở 2 bên đường đi. Tránh những nơi độ ẩm của đất cao, nơi trũng nước vì mì sẽ bị chết khi có lượng nước mưa nhiều. - Về chỉ tiêu: cố gắng phấn đấu từ tháng 3 đến tháng 6 đạt chỉ tiêu: vùng chưa có giống đạt từ 100 đến 300 gốc mì cho mỗi nhân khẩu và vùng có giống từ 500 gốc trở lên cho mỗi nhân khẩu. Ngày 04-3-1971: Lực lượng vũ trang tấn công tiêu diệt địch ở Ngọc Tô Ba Để phối hợp với chiến trường chung, tranh thủ thời cơ tiến công địch, Quân khu 5 chỉ đạo lực lượng vũ trang Kon Tum phối hợp cùng lực lượng chủ lực tại chỗ mở đợt hoạt động xuân 1971, nhằm ngăn chặn và đánh phá chương trình "Bình định đặc biệt" của địch, mở ra giành dân. Ngày 04-3-1971, Trung đoàn 66 chủ lực cùng bộ đội địa phương Kon Tum bao vây tấn công tiêu diệt 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn khác thuộc trung đoàn 42 nguỵ tại NgọcTô Ba, đập tan cuộc hành quân lớn trong chương trình "bình định cấp tốc" của địch, buộc số còn lại phải rút về lập tuyến phòng ngự Plei Cần, Đăk Mốt, Tân Cảnh, Ngọc Rinh Rua. Ngày 16-3-1971: Tiểu đoàn đặc công 406 tập kích sân bay Kon Tum Ngày 16-3-1971: Tiểu đoàn đặc công 406 phân công C207 do đồng chí Nguyễn Xuân Việt- Đại đội trưởng chỉ huy tập kích sân bay Kon Tum. Kết quả đã phá hủy 12 nhà lính, 5 máy bay, 1 đài chỉ huy, 1 kho xăng dầu và nhiều lô cốt, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch. Trong trận này đồng chí Nguyễn Xuân Việt đã anh dũng hy sinh. Với những chiến công xuất sắc, năm 1997, đồng chí Nguyễn Xuân Việt được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Ngày 30-3-1971: Bộ đội chủ lực ta tấn công địch ở Ngọc Rinh Rua Đêm 30-3-1971, tiếp tục phát huy thắng lợi ở Ngọc Tô Ba, ba trung đoàn chủ lực 28,66,31 tiếp tục bao vây tấn công tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch ở Ngọc Rinh Rua, đồng thời bắn vào căn cứ Đăk Tô-Tân Cảnh, làm hai căn cứ này bị tiêu diệt. Thắng lợi ở Ngọc Rinh Rua đã chặt đứt một mắt xích quan trọng hệ thống phòng ngự của địch ở Tây nam Tân Cảnh, buộc chúng phải tập trung lực lượng để đối phó lại với ta nhằm chiếm lại chốt điểm quan trọng này. Đây cũng là thời cơ thuận lợi để ta có điều kiện tập trung lực lượng đánh địch, giành những thắng lợi quan trọng ở các vị trí trọng điểm tiếp theo. Ngày 08-3-1972: Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết nghị thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực X Để thống nhất và tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với khu vực M2, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Thường vụ Tỉnh ủy đã đề ra, cuộc họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy ngày 07-3-1972 đã thống nhất Quyết nghị về thành lập Đảng ủy hoạt động khu vực X. Đảng ủy có 8 ủy viên gồm: Đồng chí Võ Tấn Lộc (Banh), nguyên Bí thư H67 làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí A Nhân, Phó Bí thư H29 làm Phó bí thư Đảng ủy và 06 đồng chí ủy viên khác. Đảng ủy khu vực X hoạt động dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy. Đảng ủy chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện khu vực này. Các huyện ủy H16, H29 có trách nhiệm cung cấp nhân, vật lực, tạo mọi điều kiện cùng Đảng ủy hoàn thành nhiệm vụ Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giao. Từ ngày 08 đến 16-3-1973: Tỉnh ủy Kon Tum tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình sau ngừng bắn Tháng 3-1973, Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị nhằm đánh giá tình hình và triển khai nhiệm vụ sau ngừng bắn. Căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương, Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ, quan dân trong tỉnh là: " Ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, khẩn trương chuyển biến cả về nhận thức tư tưởng và tổ chức trong toàn Đảng bộ, quân dân theo kịp với tình hình trong giai đoạn mới, tăng cường đoàn kết nhất trí, khẩn trương đưa công tác vùng địch lên một bước, giữ vững phát triển thế bao vây, tấn công chia cắt địch... Giữ vững hoà bình sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu khiêu khích nống lấn phiêu lưu của địch." Đầu tháng 3-1975: Lực lượng vũ trang Kon Tum và sư đoàn 968 tổ chức đánh nghi binh trong chiến dịch Tây Nguyên Để tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Bộ chính trị, Quân uỷ Trung ương đã chọn Tây nguyên làm hướng tấn công có ý nghĩa chiến lược ,trong đó thị xã Buôn Ma Thuột được xác định là mục tiêu then chốt đánh đòn quyết định đầu tiên. Trong chiến dịch Tây Nguyên lịch sử này, để đảm bảo bí mật cho mục tiêu tấn công vào hướng trọng điểm Buôn Ma Thuột, tỉnh Kon Tum được giao nhiệm vụ cùng với Gia Lai, ngoài việc phối hợp mọi hoạt động tham gia chiến dịch theo kế hoạch, còn là mũi nghi binh gây chú ý đánh lừa mục tiêu phán đoán của địch. Tỉnh uỷ Kon Tum đã thành lập Ban chỉ đạo tác chiến để phối hợp với bộ đội chủ lực. Tỉnh đội Kon Tum đã huy động dân công ở các vùng căn cứ, vùng giải phóng ngày đêm làm đường hướng vào thị xã và phao tin :" Ta chuẩn bị tấn công vào thị xã Kon Tum và PLei Ku". Bên cạnh đó bộ đội chủ lục tích cực tổ chức đánh chia cắt địch trên đường 14, 19. Cho đến ngày 9/3, ta đã thực hiện thành công bước tấn công chia cắt địch ở tỉnh Kon Tum và PLây Cu với Buôn Ma Thuột, chia cắt tập đoàn phòng ngự của địch ở Tây nguyên với đồng bằng khu 5. Đầu tháng 3-1975 khi tiếng súng tấn công địch rộ lên khắp Mặt trận Tây nguyên thì ở tỉnh Kon Tum, hoả lực của tỉnh đội và sư đoàn 968 quân chủ lực cũng đánh mạnh vào các khu quân sự và kho tàng trong thị xã, làm cháy 5 kho nhiên liệu, một kho đạn, khống chế sân bay. Bộ đội đặc công của tỉnh đánh khu cảnh sát dã chiến, khu Nguyễn Huệ, khu thương phế binh nguỵ. Bộ đội đặc công của Mặt trận Tây nguyên ( B3) đánh vào trạm tiếp điện Chư Hreng. Chính những hoạt động quân sự thật mà giả, giả mà thật đó của quân và dân Kon Tum và bộ đội chủ lực sư đoàn 968 đã thu hút, giam chân địch tại Kon Tum, tạo điều kiện cho mặt trận chính Buôn Ma Thuột bất ngờ tấn công tiêu diệt địch, làm nên chiến thắng 10-3-1975. Ngày 14-3-1975: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 họp bàn kế hoạch rút chạy khỏi tỉnh Kon Tum Ngày 14-3-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, họp kín ở Cam Ranh cùng với một số quan chức cao cấp khác bàn kế hoạch rút chạy khỏi tỉnh Kon Tum và Pleiku. Sau đó tướng Phạm Văn Phú trở lại Pleiku, triệu tập cuộc họp khẩn cấp với cấp dưới, đọc Lệnh của Tổng thống Thiệu quyết định rút chạy khỏi Tây Nguyên về chốt giữ đồng bằng duyên hải miền Trung. Tại cuộc họp Phạm Văn Phú cũng giao hẳn nhiệm vụ chỉ huy cuộc rút chạy cho cấp dưới và rút chạy trước bằng trực thăng về Nha Trang lập cơ sở chỉ huy mới. Tại tỉnh Kon Tum và Pleiku, một kế hoạch rút chạy bí mật theo từng bộ phận của địch bắt đầu được triển khai thực hiện theo y lệnh của Thượng cấp. Địch chọn đường 25 ( trước đây là đường số 7) nhằm hướng Cheo Reo – Phú Bổn về Nha Trang để rút quân. Đây là con đường hư nát từ lâu, nhưng theo chúng, không có cách nào khác hơn. Vì đường 14,29,24 đều bị ta chiếm và chốt giữ, nếu rút theo các tuyến đường này rất dễ bị ta tiêu diệt. Mặt khác, rút theo đường 25 tuy có xấu do bị bỏ lâu ngày nhưng chúng cho là có thể an toàn bởi yếu tố bất ngờ. Ngày 16-3-1975: Ta tấn công giải phóng thị xã Kon Tum Tin chiến thắng Buôn Ma Thuột vang dội khắp nơi. Cả Tây Nguyên lan toả một khí chiến thắng. Trước thời cơ thuận lợi đó, ở Kon Tum, các cánh quân của ta được bố trí sẵn nổ súng tấn công từ các hướng vào thị xã Kon Tum và nhanh chóng làm chủ chiếm lĩnh các trận địa. Bị thất thủ, ngày 15-3-1975, địch ở Kon Tum bắt đầu tháo chạy. Ta bố trí lực lượng chặn đánh tiêu hao, tiêu diệt tàn quân địch. Đêm 16-3-1975, tất cả các lực lượng vũ trang và chính trị trong tỉnh, cùng với các mũi đột kích của quân chủ lực F968 đột nhập chiếm lĩnh và làm chủ các khu vực quân sự và cính trị trọng yếu, tiêu diệt tất cả các ổ đề kháng cuối cùng của địch, giải phóng hoàn toàn thị xã Kon Tum. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy hy sinh gian khổ kéo dài suốt 20 năm của quân và dân các dân tộc Kon Tum hoàn toàn thắng lợi. Từ 17-3 đến 20-3-1975: Tỉnh ủy Kon Tum tổ chức Hội nghị bàn về tình hình và nhiệm vụ trước mắt Sau giải phóng Kon Tum (16-3-1975), để nhanh chóng ổn định tình hình, từ ngày 17-3 đến ngày 20-4-1975, Tỉnh uỷ Kon tum tổ chức Hội nghị để xem xét toàn bộ tình hình và đề ra những nhiệm vụ trước mắt cho toàn Đảng bộ. Về nhiệm vụ trước mắt, Nghị quyết chỉ rõ: " Phát huy mạnh mẽ thắng lợi to lớn và toàn diện, đoàn kết nhất trí cao độ, nỗ lực khắc phục khó khăn, nâng cao khí thế cách mạng tiến công và tinh thần triệt để cách mạng, động viên toàn Đảng bộ, quân, dân, tiếp tục truy quét địch, xây dựng cả vể tư tưởng và tổ chức, thuần khiết nội bộ quần chúng, đẩy mạnh sản xuất; Xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở vùng giải phóng; Vừa nghiên cứu vừa bắt tay ngay vào xây dựng toàn tỉnh một cách nhanh chóng, vững mạnh, toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, trọng tâm là xây dựng và phát triển kinh tế, góp phần giải phóng miền Nam." Ngày 19-3-1975: Tỉnh ủy Kon Tum và Ban Cán sự H5 quyết định thành lập Ủy ban Quân chính thị xã Kon Tum Ngày 19-3-1975 Tỉnh ủy Kon Tum và Ban cán sự H5 chuyển cơ quan vào nội thị. Tỉnh ủy Kon Tum và Ban Cán sự H5 quyết định thành lập Ủy ban Quân chính thị xã, làm nhiệm vụ phụ trách công tác tiếp quản. Đồng chí Trần Thanh Dân, Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Chủ tịch; đồng chí Nguyễn Thế Vũ, Bí thư Ban cán sự H5 làm Phó chủ tịch. Ủy ban gồm 6 tiểu ban: Văn phòng, Quân sự- an ninh, Kinh tế đời sống, Tuyên văn giáo, Y tế và Dân vận. Ủy ban chia thị xã thành 8 khu vực, mỗi khu vực có 1 chi bộ Đảng lãnh đạo lập ủy ban cách mạng ở cơ sở, triển khai những nhiệm vụ cấp bách sau giải phóng. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy về việc Khẩn trương triển khai thực hiện công tác tiếp quản, thu dọn chiến trường vùng mới giải phóng, Ủy ban quân chính đề ra 8 nhiệm vụ cấp bách cho thị xã: + Một là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ nhận rõ ý nghĩa thắng lợi, thấy hết thuận lợi, khó khăn và phức tạp, chống tư tưởng thỏa mãn, an nhàn, mất cảnh giác, đề phòng tư tưởng hưởng lạc, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp quản. + Hai là: Phát động quần chúng giải quyết những lo lắng băn khoăn, đưa quần chúng đứng lên hành động cách mạng, tham gia truy tróc ác ôn phản động, vận động, vận động kêu gọi binh lính sĩ quan, công chức, nhân viên ngụy quyền ra trình diện chính quyền quân quản, nộp vũ khí tài liệu và phương tiện chiến tranh. + Ba là: Truy quét, làm tan rã ngay bọn FULRO đang ẩn náu trong rừng, đập tan mưu đồ cấu kết giữa chúng và bọn phản động còn lại chống phá ta. + Bốn là: Phân loại sĩ quan, binh lính, công chức, nhân viên ngụy quyền, tiến hành giáo dục, xử lý theo đúng chính sách khoan hồng và nghiêm minh của Mặt trận dân tộc giải phòng miền Nam Việt Nam. + Năm là: Tổ chức ngay việc cứu đói, cứu đau, cứu lạt, cứu rách cho đồng bào, đón dân bị địch kéo chạy trở về, đưa đồng bào bị dồn về làng cũ, ổn định ăn ở, sản xuất. + Sáu là: tiếp quản chu đáo các công sở, kho tàng, chiến lợi phẩm. Duy trì hoạt động của nhà máy điện và đội vệ sinh công cộng, giải quyết đời sống của công nhân. Khẩn trương chuẩn bị trường lớp, tiếp quản các bệnh viện, đưa hoạt động giáo dục và y tế trở lại bình thường. + Bảy là: Chuẩn bị chính quyền nhân dân lâm thời ở thị xã và các xã phường. Hình thành các tổ chức quần chúng, đưa cơ sở và quần chúng tốt vào dân quân tự vệ để bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. + Tám là: dãn dân ra vùng ven khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, xây dựng đồng ruộng và vận động phong trào sản xuất lương thực, thực phẩm. * Ngày 20-3-1975: Ban chỉ đạo, chỉ huy tiền phương tỉnh chấm dứt nhiệm vụ. Ủy ban quân chính thị xã và các khu vực triển khai công tác tiếp quản dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ban cán sự thị xã. Từ ngày 07 đến 08/3/1976: Đoàn đại biểu Quân khu V gặp và làm việc với đoàn đại biểu Quân khu Đông Bắc (Campuchia) Ngày 7 và 8 tháng 3/1976, tại Đồn 19 biên phòng Campuchia, đoàn đại biểu Quân khu V (Việt Nam) do Thiếu tướng Lư Giang - Phó Tư lệnh quân khu làm trưởng đoàn đã gặp và làm việc với đoàn đại biểu Quân khu Đông Bắc (Campuchia) do ông Men San - Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Campuchia, Bí thư khu ủy Quân khu Đông Bắc làm trưởng đoàn . Sau 2 ngày họp, 2 đoàn đã ký biên bản chung thỏa thuận 3 vấn đề: 1 - Về nguyên tắc và phương pháp giải quyết: Không dùng lực lượng vũ trang, biện pháp vũ trang giải quyết, hai bên cùng cử nhân viên chuyên môn đo đạc tại thực địa, sau đó bàn bạc giải quyết. Trong khi chờ kết quả đo đạc, hai bên giữ nguyên vị trí đóng quân như ngày 24/1/1976. Đối với khu vực kho thóc của Việt Nam (X114), giao cho 2 tỉnh Gia Lai - Kon Tum và Ratanakiri cử đại diện xác định trong thời gian sớm nhất. Nếu X114 nằm ở phía tây bắc địa danh mà phía Campuchia gọi là Phum Moug nằm ở kinh độ 11 giờ 69 phút 40 giây, vĩ độ 15 giờ 62 phút 30 giây (Mảnh bản đồ Iali Quet - N.165W, do Pháp in và phát hành) thì Việt Nam xác nhận đó là lãnh thổ của Campuchia và sẽ ra lệnh cho quân đội mình không xâm phạm đến khu vực đó. Ngược lại, nếu X114 nằm ở kinh độ 11 giờ 69 phút 15 giây, vĩ độ 15 giờ 66 phút 55 giây (Mảnh bản đồ trên) thì Campuchia xác nhận đó là lãnh thổ của xã Morai, huyện Sa Thầy, tỉnh Gia Lai - Kon Tum và sẽ ra lệnh cho quân đội của mình không xâm phạm đến khu vực đó. 2 - Về nhân dân biên giới: - Campuchia hứa sẽ trả toàn bộ số dân cùng tài sản của dân làng Sộp trong thời gian sớm nhất, giao cho hai tỉnh bàn bạc cụ thể về đường trao trả và thời gian cụ thể. - Việt Nam vì tình hữu nghị đã vận động toàn bộ dân xã Bờ Y đang sinh sống giáp đường biên giới vào sâu trong nội địa, cam kết sẽ hoàn thành tháng 6/1976, Campuchia bảo đảm không xâm phạm mồ mả và cho phép dân Bờ Y sang thăm theo đúng phong tục. - Đối với dân Campuchia mới sang lãnh thổ Gia Lai - Kon Tum, Đại diện Quân khu Đông Bắc đề nghị chính quyền Gia Lai - Kon Tum vận động thuyết phục họ trở về lãnh thổ Campuchia, nếu họ không về thì Việt Nam giải quyết các vấn đề đời sống cho họ. 3 - Thành lập ban liên lạc hai tỉnh, lấy Đồn 23 công an nhân dân vũ trang Việt Nam trên đường 19 làm địa điểm liên lạc. Từ ngày 01 đến 10-3-1977: Đảng bộ tỉnh tổ chức Đại hội lần thứ VI (vòng 2) Từ ngày 01 đến ngày 10 tháng 3/1977, Đảng bộ tỉnh tổ chức Đại hội lần thứ VI (vòng 2). Nội dung: - Nghiên cứu, quán triệt văn kiện lần thứ IV của Đảng, kiểm điểm đánh giá tình hình và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho kế hoạch những năm tiếp theo (1976 - 1980) là: “Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng... khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất kỹ thật với tốc độ nhanh, đồng thời từng bước cải thiện đời sống nhân dân là 2 nhiệm vụ rất cơ bản, cấp bách và quan trọng; đẩy mạnh khai hoang xây dựng cánh đồng định canh định cư, làm thuỷ lợi, tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp và mở rộng mạng lưới lưu thông phân phối, tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới XHCN, xoá bỏ người bóc lột người, từng bước tích cực xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, ra sức phát triển sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục; kết hợp kinh tế với quốc phòng, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội; tăng cường sức chiến đấu của Đảng trên mọi lĩnh vực, khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới...” - Đại hội nêu 7 nhiệm vụ quan trọng cần phải làm. Trong đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trước mắt trong 2 năm (1977 - 1978) là: “Đẩy mạnh khai hoang, xây dựng cánh đồng, làm thuỷ lợi, phát triển sản xuất nhằm tập trung giải quyết vấn đề lương thực, đảm bảo yêu cầu tự túc về lương thực cho nhân dân...”. - Đại hội đề ra một số biện pháp chính cần tiến hành là: Động viên công tác chính trị tư tưởng, phải quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, dám nghĩ, dám làm, biết đi tắc, đón đầu để tạo ra những bước tiến nhanh, vượt bậc đồng thời đảm bảo bước tiến vững chắc, phải tổ chức lao động tập thể theo hình thức công trường thủ công ban đầu từ đó tạo ra những công trình lớn, và đó chính là cách tốt nhất để phát huy khả năng và sức sáng tạo của quần chúng; phải xây dựng nhiều loại hình mẫu phù hợp với bước đi lên và đặc điểm tình hình của tỉnh ta, để từ đó biến các hình mẫu thành ngọn cờ đầu trong phong trào thi đua toàn tỉnh. Tỉnh uỷ đặt ra, trong công tác chỉ đạo: giữa mối quan hệ và xây dựng thì lấy xây dựng làm chủ yếu, đồng thời cần tập trung chỉ đạo một cách toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; kết hợp kinh tế với quốc phòng; sản xuất chăm lo đời sống quần chúng với chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Khâu quyết định vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài là phát động quần chúng thành cao trào đồng khởi thi đua lao động xây dựng XHCN và đào tạo đội ngũ cán bộ đủ sức đảm bảo nhiệm vụ ở các cấp, nhất là cơ sở và cấp huyện. - Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 37 đồng chí; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ, Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành TW Đảng được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Y Một (Y Pah), Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành TW và đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) được bầu làm Phó Bí thư. Ngày 02-3-1979: Hội đồng Chính phủ ra Quyết định điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Sa Thầy Ngày 02-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 77-CP thành lập và điều chỉnh địa giới một số xã và thị trấn thuộc các huyện Sa Thầy, An Khê, Chư Prông và Ayun Pa, tỉnh Gia Lai-Kon Tum. Theo đó, với huyện Sa Thầy thành lập ở các điểm kinh tế mới Kleng thuộc huyện Sa Thầy một số xã mới, lấy tên là xã Sa Bình, xã Sa Nghĩa và xã Sa Sơn thuộc huyện Sa Thầy. Ngày 17-3-1979: Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum ra Nghị quyết về việc thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với các tỉnh bạn Lào và Campuchia Ngày 17-3-1979 Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum ra Nghị quyết số 08/NQ-TU, quyết định những nhiệm vụ về việc thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với các tỉnh bạn Lào và Cam pu chia. Cụ thể: Đối với tỉnh Atôpư (Attapư) ngoài việc thực hiện chủ trương của 2 Trung ương Đảng ta và bạn về khảo sát cắm mốc tuyến biên giới, phải tích cực hơn nữa phối hợp với bạn tuần tra bảo vệ an ninh biên giới, bắt bọn vượt biên từ Gia Lai-Kon Tum đi Atôpư để ra nước ngoài, sẵn sàng quyết tiêu diệt bọn phỉ và những bọn phản động khác gây rối biên giới, thực hiện việc ký kết giiúp đỡ tỉnh Atôpư trên 1 số mặt theo yêu cầu của bạn với điều kiện và khả năng của ta. Đối với Ratanakiri: kết hợp lực lượng của bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt- Iêng Xa Ri còn ẩn náu ngoài rừng, giữ gìn an ninh chính trị ở biên giới, giúp bạn xây dựng thực lực và khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, giải quyết đời sống. Ngày 17-3-1979 Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum ra Nghị quyết về công tác quân sự và an ninh chính trị Ngày 17-3-1979 Tỉnh ủy Gia Lai – Kon Tum họp Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy (mở rộng) lần thứ VIII ra Nghị quyết số 08/NQ-TU, quyết định về công tác quân sự và an ninh chính trị Nghị quyết xác định: + Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng và thực hiện quốc phòng toàn dân (tổ chức quân sự hóa toàn dân, vũ trang tòan dân và phát động toàn dân đánh giặc) trong phạm vi toàn tỉnh. + Tiến hành tuyển quân, xây dựng lực lượng, củng cố bộ máy chỉ huy chỉ đạo, chú trọng củng cố các ban chỉ huy quân sự thống nhất tỉnh, huyện (bổ sung Chủ tịch UBND làm chính ủy phó và chủ nhiệm ủy ban kế hoạch các cấp làm chỉ huy phó). + Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội + Thực hiện chủ trương ngày làm 10 giờ trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, kinh doanh, kể cả cơ quan quân sự và công an tỉnh, huyện. Trong 10 giờ thì 8 giờ lao động sản xuất, 2 giờ tập luyện quân sự và làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ. Ngày 17-3-1979: BCH Đảng bộ tỉnh tổ chức Hội nghị Tỉnh ủy (mở rộng) lần thứ VIII Hội nghị quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc kháng chiến chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược nước ta. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình và nhiệm vụ mới, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ VIII quyết định những công tác cấp bách: Củng cố chính quyền, đoàn thể phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, cần phải phát huy chức năng chính quyền các cấp đó là tiến hành bầu cử HĐND 2 cấp (huyện và xã), bầu cử UBND xã, huyện, gấp rút kiện toàn tăng cường bộ máy chính quyền tỉnh, huyện, thực hiện đúng chức năng là cơ quan quản lý và tổ chức thực hiện xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, chăm lo đời sống quần chúng là pháo đài kiên cường trong chiến đấu. Ngày 17-3-1981: UBND tỉnh Gia lai- Kon Tum tổ chức hội nghị tổng kết 5 năm vận động định canh định cư xây dựng vùng kinh tế mới (1976-1980) Trong 5 năm khai hoang được 82.899ha đất trồng trọt đạt 82,90% kế hoạch của tỉnh.Bình quân 1 nhân khẩu Kinh tế mới có 900m2 đất canh tác (không tính thổ cư và đất xây dựng khác), bình quân đất canh tác 1 nhân khẩu định canh- định cư là 1000m2. 5 năm qua chúng ta đã vận động và tổ chức định cư gần 46.471 hộ = 229.186 khẩu, vận động đinh canh - định cư kết hợp với phong trào Hợp tác xã đua nông dân từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể, tạo ra Lực lượng sản xuất mới làm cơ sở cho công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, tính đến tháng 11/1980 toàn tỉnh có 43 HTX nông nghiệp, 869 tập đoàn sản xuất. - Về Nông nghiệp: Sản xuất đông xuân đã gieo trồng được 10.358ha, trong đó cây lương thực đạt 8910ha, sản lượng lương thực quy thóc đạt 16.000ha, cây thực phẩm 599ha, cây công nghiệp ngắn ngày 869ha. - Chăn nuôi: Đàn trâu 12.500 con, đàn bò: 83.000 con, đàn lợn 160.000 con. - Có 16 HTX tiến hành đại hội xã viên, thực hiện Chỉ thị 100 của Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động. Tỉnh đã phổ biến rộng rãi đến các huyện, thị xã và HTX, tập đoàn sản xuất, nhiều huyện đã tổ chức học tập trong cán bộ chủ chốt của huyện, xã và HTX, tập đoàn sản xuất như: Đăk Tô, An khê,, PleiKu đang chuẩn bị triển khai trong vụ mùa tới, mỗi huyện lấy 1 HTX làm thí điểm. - Về thuỷ lợi: Tu sửa các công trình và máy bơm, nạo vét kênh mương, phong trào nhân dân làm thuỷ lợi nhỏ được duy trì, nhiều huyện , thị như Đăk Tô, Sa Thầy, Kon Tum, An Khê đã phát động nhân dân ra quân làm thuỷ lợi nhỏ đồng thời đẩy mạnh thi công các côngtrình: Hồ Đăk Tin, đập Yang Nam, hồ Hoàng Ân, công trình Biển Hồ và khu tưới Ia Sao… - Lâm nghiệp: trồng mới 160 ha - Công nghiệp và TTCN: hàng xuất khẩu tiến triển chậm, sản phẩm làm ra ít, giá trị tổng sản lượng lương thực đạt: 30 triệu đồng trong đó, quốc doanh đạt 18 triệu đồng, TTCN đạt 12 triệu đồng. - Ngành Giao thông vận tải cố gắng phục vụ vận chuyển lương thực hàng hoá ước đạt 230.000 tấn, và hành khách 1,2 triệu hành khách tăng gấp 2 lần so với kế hoạch Trung ương giao - Định canh định cư: 3000 hộ, 14.000 khẩu, khai hoang 2.500 ha. Ngày 24-3-1994: Chính phủ ra Nghị định thành lập huyện Đăk Hà Ngày 24-3-1994, Chính phủ ra Nghị định số 26-CP thành lập huyện Đăk Hà và thị trấn huyện lỵ Đăk Hà: + Thành lập huyện Đăk Hà: trên cơ sở 2 xã Đăk Pxy và Đăk Hring của huyện Đăk Tô và 4 xã Đăk La, Hà Mòn, Đăk Ui, Ngọc Réo của thị xã Kon Tum. Huyện Đăk Hà có 74.924,7 ha diện tích tự nhiên với 29.840 nhân khẩu. + Thành lập thị trấn Đăk Hà: trên cơ sở 2.250 ha diện tích tự nhiên với 9.957 nhân khẩu của xã Hà Mòn. Thị trấn Đăk Hà có 2.250 ha diện tích tự nhiên với 9.957 nhân khẩu bao gồm các thôn 1,2,3,4,5,6,7 (nông trường Đăk Uy II, nông trường 701, xí nghiệp chăn nuôi, nông trường Đăk Uy III) và thôn Long Loi. Huyện Đăk Hà có 7 đơn vị hành chính là xã Đăk Pxi, Đăk Hring, Đăk La, Hà Mòn, Đăk Ui, Ngọc Réo và thị trấn Đăk Hà. Ngày 28-3-1994: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 10-CT/TU về việc xây dựng các xã vùng cao, vùng biên giới Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ (khóa X) về tăng cường xây dựng các xã vùng đồng bào DTTS, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. BTVTU chủ trương: Các sở, ban ngành, đoàn thể thuộc khối chính quyền, khối đảng mỗi cơ quan nhận giúp đỡ một xã trên các mặt: Phát triển KT-XH, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng đảng và vận động quần chúng. Để thực hiện tốt chủ trương này, BTVTU yêu cầu: - Ban Tổ chức Tỉnh ủy phối hợp các Ban để xây dựng đề cương và nội dung xây dựng xã trình BTVTU. - Ban cán sự đảng UBND tỉnh tiến hành giao các sở, ban ngành thuộc khối chính quyền đảm nhận xây dựng xã; lập danh sách gửi về Tỉnh ủy. - Ban Tổ chức Tỉnh ủy giúp BTVTU phân công các ban, đảng đoàn, Đảng ủy trực thuộc đảm nhận xây dựng xã. - Ban Tổ chức Tỉnh ủy là cơ quan thường trực giúp BTVTU điều hành triển khai thực hiện chủ trương này. - Các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên phải nhận thức chủ trương này là nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với đồng bào DTTS để ra sức thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã. Ngày 10-3-2000: Bộ Trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ký quyết định số 880/QĐ-BGDĐT công nhận tỉnh Kon Tum là đơn vị đạt chuẩn Phổ cập giáo dục và xoá mù chữ vào thời điểm 2/2000. Theo tiêu chí, toàn tỉnh đã có 6.035 trẻ 14 tuổi đã tốt nghiệp tiểu học đạt 82,2%; có 53137 người trong độ tuổi phải xoá mù (từ 15-25 tuổi) đã biết chữ đạt 96,69%; 72/79 xã phường thị trấn đạt chuẩn 91,1%. Ngày 24-3-2003: Tại xã Đăk Tờ Kan (Đăk Tô) lễ khởi công gói thầu số 5 Ngày 24-3-2003, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đàn Đình Bông chính thức phát lệnh khởi động dự án xây dựng 45 cầu giao thông nông thôn tại các tỉnh miền Trung và Tây nguyên. Tham dự lễ khởi công có đại diện Văn phòng Chính phủ, Ban quản lý các dự án 18 (Bộ GTVT) ; về phía tỉnh Kon Tum có đồng chí Trần Quang Vinh, PCT UBND tỉnh, lãnh đạo sở Giao thông vận tải, huyện đăk Tô và đông đảo bà con địa phương. Dự án xây dựng 45 cầu giao thông nông thôn tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên được triển khai bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản và một phần vốn đối ứng của Việt Nam với tổng mức vốn đầu tư là 582,5 tỷ đồng, bao gồm phần vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản (468,8 tỷ đồng tương ứng 4,07 tỷ yên), phần vốn của Chính phủ Việt Nam 103,7 tỷ đồng. Kon Tum có 2 cầu được đầu tư trong dự án là cầu Đăk Tờ Kan và cầu Ngọc Réo. Từ ngày 16 đến 19/3/2004: Thường trực Tỉnh uỷ tổ chức Hội thi Báo cáo viên giỏi cấp tỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh. Có 35 báo cáo viên xuất sắc nhất được đựơc tuyển chọn từ các hội thi cơ sở của 13 đảng bộ trực thuộc tỉnh về tham dự. Kết quả: Giải nhất thuộc về báo cáo viên Hoàng Thị Thuý Hường (Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh ); 2 giải nhì là báo cáo viên Vũ thị Vân (Đảng bộ thị xã) và Lê Trọng Chiêm (Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh); 3 giải ba là các báo cáo viên Dương Huy Đức (Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh ), Chu Mai Phong (Đảng bộ huyện ĐakGlei) và Lê Xuân Thạnh (Đảng bộ Thị xã ); 5 giải khuyến khích và một số giải phụ . Ngày 31-03-2004: Ban Vận động thành lập Câu lạc bộ doanh nghiệp tỉnh tổ chức Đại hội thành lập Câu lạc bộ doanh nghiệp tỉnh. Khi tiến hành Đại hội, toàn tỉnh có 44 DNNN và 238 doanh nghiệp dân doanh thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong và ngoai tỉnh đăng ký hoạt động. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cộng đồng các Doanh nghiệp là nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh đảy mạnh xuất khẩu tiến tới hội nhập toàn cầu. Đại hội thông qua Điều lệ và bầu ông Nguyễn Xuân Thiện, Giám đốc Công ty Tư vấn Đầu tư & và Xây dựng Xuân Thiện làm Chủ tịch CLB và 12 thành viên khác vào BCH CLB với nhiệm kỳ 3 năm (2004 – 2006). Ngày 07-03-2005:UBND tỉnh ban hành Quyết định số 235/QĐ-UB về việc mở cửa khẩu phụ trên tuyến biên giới với tỉnh Attapư (Lào) Cụ thể: Mở cửa khẩu phụ Đăk Long xã Đăk Long huyện Đăk Glei, đối diện với cửa khẩu phụ Văn Tắt huyện Xản Xay tỉnh Atôpư. Cùng ngày UBND tỉnh ban hành Quyết Định 236/QĐ-UB về việc mở cửa khẩu phụ trên tuyến biên giới với tỉnh Sê Kông (Lào). Mở cửa khẩu phụ Đăk Blô xã Đăk Blô huyện Đăk Glei, đối diện với cửa khẩu phụ Đăk Ba huyện ĐăkChưng tỉnh Sê Kông. Cũng tại các Quyết định này UBND tỉnh cũng giao nhiệm vụ cho BCHBP tỉnh, Hải quan GiaLai-Kon Tum, UBND huyện Đăk Glei và các ngành có liên quan chịu trach nhiệm triển khai, bố trí lực lượng thực hiên nhiệm vụ quản lý cửa khẩu phụ đúng theo qui định hiện hành. Ngày 16-3-2005: Tỉnh uỷ,HĐND,UBND,UBMTTQVN tỉnh tổ chức Lễ mittinh kỷ niệm 30 năm Ngày giải phóng tỉnh KonTum Trên 8.000 cán bộ,công nhân viên chức,chiến sỹ LLVT và nhân dân trên địa bàn tỉnh về dự. Đến dự buổi Lễ có đồng chí Nguyễn Văn Yểu, UVTW Đảng-PCT quốc hội nước CHXHCNVN; ông Khăm Xỏn Đuông Lăng Xỉ, Trưởng đoàn đại biểu tỉnh Atôpư và ông Chăm Tha Bum, Trưởng đại biểu tỉnh Sê Kông của nước CHDCND Lào. Đặc biệt buổi Lễ kỷ niệm vinh dự được các đồng chí Nông Đức Mạnh, TBT BCHTW Đảng; Trần Đức Lương, Chủ tịch Nước; Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ gửi lẵng hoa chúc mừng. Ngày 16-3-2005: Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức gặp mặt cán bộ và thân nhân gia đình cán bộ được Đảng phân công ở lại miền Nam trong thời kỳ kháng chiến. Nhân dịp 30 năm giải phóng tỉnh và giải phóng hoàn toàn miền Nam, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức gặp mặt 50 cán bộ và thân nhân gia đình cán bộ được Đảng phân công ở lại miền Nam trong thời kỳ kháng chiến. Nhân dịp này, UBND tỉnh quyết định trích từ nguồn dự phòng ngân sách tỉnh năm 2005 với số tiền 1099,2 triệu đồng để hỗ trợ cho các đối tượng thương binh, gia đìng liệt sỹ, gia đình có công với nước trong tỉnh. Ngày 21-3-2005: Đồng chí Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT kiểm tra tình hình để xảy ra cháy rừng nghiêm trọng tại huyện Ngọc Hồi. Cùng đi với đoàn có đại diện Bộ Công an, Cục kiểm lâm, lãnh đạo công ty Nguyên liệu giấy miền Nam. Đồng chí Hà Ban, Chủ tịch UBND và đồng chí Đào Xuân Quí, Phó chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo huyện Ngọc Hồi và các sở, ngành liên quan tham gia đoàn công tác của Bộ trưởng. Địa bàn huyện Ngọc Hồi đã xảy ra 13 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 425 ha rừng nguyên liệu giấy chỉ trong vòng 3 tháng đầu năm 2005; ước thiệt hại gần 10 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là người dân đốt rừng làm rẫy làm cháy lan. Tuy nhiên công tác phát dọn thực bì bị bỏ ngõ, đường băng cản lửa vẫn chưa bảo đảm…nên nguy cơ cháy vẫn tiềm ẩn rất lớn. Từ ngày 28 đến 30-3-2006: Chủ tịch nước Trần Đức Lương, thăm và làm việc tại tỉnh Kon Tum Đoàn Chủ tịch nước thăm và làm việc với Ban quản lí Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y; xã Đăk Xú huyện Ngọc Hồi, Nhà máy chế biến tinh bột sắn Sa Bình, huyện Sa Thầy; công ty 732; kiểm tra tiến độ xây dựng công trình đường Hồ Chí Minh và huyện Đăk Tô, tặng quà một số gia đình chính sách trong tỉnh. Cùng đi với chủ tịch nước có Văn phòng Chính phủ và một Bộ ngành Trung ương. đồng chí Y Vêng và các đồng chí trong Thường trực UBND tỉnh trân trọng đón tiếp và tham gia các hoạt động của đoàn. Ngày 30-3-2006: LĐLĐ tỉnh tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập công đoàn viên chức tỉnh Kon Tum. Đồng chí Đặng Ngọc Tường, Phó chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐVN, đại diện các ban, ngành tỉnh và 54 công đoàn viên chức cơ sở dự. CĐVC tỉnh có 1400 đoàn viên. Đồng chí Đặng Trung Can, Phó chủ tịch LĐLĐ tỉnh được cử là chủ tịch lâm thời CĐVC tỉnh. Ngày 02-3-2007: Đại hội Phật giáo lần thứ III Ngày 02-3-2007, Đại hội Phật giáo Kon Tum lần thứ III được tổ chức. Dự đại hội có: Hoà thượng Thích Thiện Bình- Hội đồng chứng minh TW, Trưởng ban kiểm soát TW Giáo hội; Hoà thượng Thích Thiện Duyên - Hội đồng chứng minh TW, Trưởng Ban hướng dẫn nam nữ phật tử TW, Trưởng Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Nam; Hoà thượng Thích Thiện Nhơn- Phó tổng thư ký văn phòng II TW Giáo hội Phật giáo; Thích Giác Toàn- Phó ban trị sự TW Giáo hội… Đại hội bầu Ban trị sự gồm 15 thành viên. Hoà thượng Thích Quảng Xả làm Trưởng Ban. Ngày 04-03-2009: UBND tỉnh Kon Tum ban hành Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND về việc thành lập Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm trực thuộc Sở Y tế tỉnh Kon Tum Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có nhiệm vụ giúp Giám đốc Sở Y tế tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về vệ sinh an toàn thực phẩm, thực hiện thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. Ngày 18-03-2009: UBND tỉnh Kon Tum ban hành Qui định về quản lý, sử dụng hệ thống thư điện tử trong các cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh (kèm theo Quyết định số: 22/2009/QĐ-UBND) Hệ thống thư điện tử là công cụ để cán bộ, công chức, viên chức (CBCC) thuộc các cơ quan, đơn vị hành chính trong tỉnh sử dụng để trao đổi thông tin dưới dạng thư điện tử thông qua mạng internet nhằm phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ được phân công. Ngày 24-3-2009: Huyện Đăk Hà tổ chức Lễ mít tinh kỷ niệm 15 năm thành lập huyện và đón nhận danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới Đến dự Lễ mit tinh kỷ niệm có các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh; đại diện Ban chỉ đạo Tây Nguyên; các sở, ban, ngành, đoàn thể; các đồng chí nguyên là lãnh đạo chủ chốt của tỉnh và huyện Đăk Hà qua các thời kỳ; các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và đông đảo cán bộ, chiến sỹ và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Hà. Tại buổi lễ mit tinh, đồng chí Y Vêng- Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, thừa ủy quyền Chủ tịch nước đã trao tặng Danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Đăk Hà. [1] Sự vụ Văn thư số 190/QK3/3/HQ V/v Thám sát đường 14, vùng cực bắc Kon Tum. Tài liệu tại Trung tâm lưu trữ QG II, ký hiệu: 5238. [2] Một số vụ thảm sat điển hình của Mỹ-ngụy đối với nhân dân miền nam Việt Nam (từ 1965 đến 1969). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. [3] - Theo báo cáo của UBKCHC miền Nam Trung bộ từ ngày toàn quốc kháng chiến đến ngày 18-5-1949 (lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy ), thì khoảng đầu năm 1949 ông Nguyễn Văn Sao thay thế ông Võ Bẩm chuyển công tác. - Theo báo cáo tình hình địch hậu Tây Nguyên năm 1949 (lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy), thì năm 1949 UBKCHC Kon Tum có sự thay đổi thành phần, gồm: + Ông Nay Derr: Chủ tịch + Ông Y Kiếp: Phó chủ tịch (đã bị Pháp bắt) + Ông Nguyễn Hữu Tiến: Ủy viên + Ông Nguyễn Trọng Ba: Ủy viên quân sự [4] Về việc sáp nhập này, ngày 15-4-1950: Thủ tướng Chính phủ cũng ra Nghị định số 07/NĐ-TTg hợp nhất hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành một tỉnh, lấy tên là tỉnh Gia Lai-Kon Tum. |
Trần Thị Bích Liên (tổng hợp) |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn